Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản: Vợ nhặt
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản: Vợ nhặt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- on_tap_mon_ngu_van_lop_12_van_ban_vo_nhat.docx
Nội dung text: Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản: Vợ nhặt
- Đề 1: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Mở bài: Các bạn tự chọn mở bài trong file TỔNG HỢP NHỮNG MỞ BÀI NÂNG CAO GIÚP CHỊ Thân bài: Giới thiệu hiện thực nạn đói * Các ý cần đạt: + Mở đầu truyện là bức tranh ngày đói phản ánh nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu, đâu đâu cũng ngập trong cái đói. + Người sống thì “lũ lượt dắt díu, bồng bế, dật dờ lặng lẽ xanh xám như những bóng ma” + Người chết “như ngả rạ, không một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta không thấy ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường” + Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người, tiếng quạ cứ “gào lên từng hồi thê thiết” Bước vào thế giới của Vợ nhặt ta sẽ cảm nhận được phần nào hiện thực trần trụi thấm đẫm những đau thương, đó là câu chuyện buồn về số phận con người trong nạn đói năm 1945. Cái đói cũng là một loại giặc nguy hiểm của nước ta khi ấy, cái đói mà Kim Lân nhắc tới hiện hình trong một không gian cụ thể - xóm Ngụ Cư, từ không gian nhỏ bé ấy nhà văn hướng người đọc đến cái đói đeo đẳng cả một dân tộc, ám ảnh trên bóng hình của những người còn sống. Đói khát khiến những đứng trẻ tinh nghịch ngày nào còn chọc ghẹo Tràng trở nên “ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”, khiến những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đi ngụ cư để tìm kiếm cái ăn chỗ ở trong nghịch cảnh “đội chiếu lũ lượt, bồng bế dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Mặc dù là những câu văn miêu tả sự sống nhưng lại khiến người đọc nhìn thấy một không gian u tối, ghê rợn. Sự sống và cái chết dường như không còn ranh giới rõ rệt nữa bởi “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma” và rồi “người chết như ngả rạ, thây nằm còng queo bên đường”. Sự sống là điều đáng quý nhất mà chúng ta có được, là quyền đầu tiên và cơ bản nhất của con người thế nhưng ở đây, việc hai lần so sánh “người” với “bóng ma” đã khắc họa một thực tại buồn tới xót xa, việc đơn giản nhất là tồn tại mà họ còn khó để thực hiện được. Sự khùng khiếp này không chỉ hiện lên thành hình ảnh mà còn bằng âm thanh và mùi vị: “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người”, “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” và trong đêm là “tiếng người kêu lúc to lúc nhỏ”. Xóm ngụ cư chẳng khác gì là một nghĩa địa mà sự chết chóc, thê lương đang bủa vây những sự sống mong manh. Viết về đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã khơi gợi những cái chưa ai khơi gợi, đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ, trước CMT8 năm 1945. và ông đã rất thành công khi khắc hoạ chân dung người dân lao động tuy nghèo khổ, quanh năm chân lấm tay bùn nhưng ở sâu trong họ vẫn luôn mang những phẩm chất cao đẹp. và tràng là một nhân vật như thế. Luận điểm 1: Ngoại hình và hoàn cảnh của Tràng Hoàn cảnh: nghèo khổ + Tràng sống cùng người mẹ già, là dân ngụ cư – tầng lớp bị coi khinh + Tràng làm nghề đẩy xe bò thuê – nghề thấp kém dưới đáy xh. hình ảnh Tràng xấu xí: Ngoại hình: xáu xí, thô kệch “hai con mắt nhỏ tí, quai hạm bạnh ra, thân hình vậm vạp, cái lưng to rộng như lưng gấu, cười lúc nào cũng ngửa mặt lên hềnh hệch” Nếu như trong văn Nam Cao, ta thấy Chí Phèo xuất hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, nó chửi trời, chửi đất, chửi cái đứa nào đẻ ra thân hắn”, thì Kim
- Lân lại đưa Tràng vào với một số nét khắc hoạ về ngoại hình: “dáng đi ngật ngưỡng”, “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đăm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, đôi khi lại, ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Đã vậy Tràng còn có cái tật vừa đi vừa nói, than thở những điều hắn nghĩ. Anh làm nghề đẩy xe bò thuê nuôi mẹ già ở xóm ngụ cư với thân phận bị coi khinh, cuộc sống bấp bênh, chạy ăn từng bữa. Anh sống cùng người mẹ già trong căn nhà “rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đây không chỉ là cuộc sống của riêng gia đình anh mà là của biết bao người dân trôi dạt trong nạn đói cũng đang rơi vào tình cảnh khốn khó. Luận điểm 2: Tính cách và vẻ đẹp nhân hậu của Tràng Tính cách sống vô tư, đơn giản, ít tính toán. Thích vui đùa với bọn trẻ, hoà đồng Tốt bụng: sẵn lòng cho người đàn bà xa lạ ăn giữa nạn đói Hào hiệp và nhân hậu: sẵn sàng mời người đàn bà xa lạ một bữa ăn, sau đó đưa về đùm bọc và cưu mang Một nhà văn nhân đạo từng nói rằng “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã xây dựng nên một nhân vật có nhiều phẩm chất tốt đẹp: Tràng tuy xấu xí, thô kệch nhưng ẩn sâu bên đó là một con người có tính cách sống vô tư, đơn giản, ít tính toán. Dẫu cuộc sống đầy khó khăn, vất vả Tràng vẫn không mất đi niềm vui, nụ cười. Vì thế mà bọn trẻ thích đùa với anh, mỗi lần Tràng đi làm về bọn chúng cứ ùa ra vây lấy. Tuy cuộc sống của Tràng đầy khó khăn, vất vả nhưng anh là người có tấm lòng nhân hậu. Điều đó thể hiện qua việc anh gặp thị - người vợ nhặt và chấp nhận thị làm vợ. Thật ra ban đầu Tràng không có ý chòng ghẹo ai cả, khi đẩy xe bò lên dốc quá nhọc nên Tràng hò một câu vu vơ: Muối ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì Ấy vậy mà có một người đàn bà “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” và đối đáp với anh một cách tự nhiên, thân mật, gọi “nhà tôi ơi” rồi “liếc mắt, cười tít”. Tràng cảm thấy rất vui và hạnh phúc biết bao “Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Vì là đùa nên Tràng quên ngay nhưng thị thì nhớ như in và đòi ăn vạ. Đó là lần thứ hai Tràng gặp lại thị, khi anh vừa trả hàng xong, đang ngồi uống nước trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ, người đàn bà sầm sập chạy đến cong cớn, sưng sỉa với Tràng: “Điêu! Người thế mà điêu!”. Tràng không nhận ra người đàn bà hôm trước đẩy xe cho mình. Bởi hôm nay, thị rách quá “áo quần tả tơi như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà đói rách, thảm hại anh không nỡ làm ngơ mặc dù chính anh cũng đang bị cái đói bủa vây, đang trên bờ vực của cái chết. Nhưng vượt lên tất cả Tràng đã cho thị ăn một bữa no bốn bát bánh đúc, anh không hề do dự đến số tiền ít ỏi của mình để giúp thị qua cơn đói khát. Vậy Tràng đâu phải là người đơn giản, đằng sau manh áo rách của anh là tấm lòng nhân hậu, là tấm lòng vàng của người dân lao động nghèo. Luận điểm 3: Tràng là người khao khát hạnh phúc gia đình - Gữa lúc nạn đói hoành hành: đến cái thân mình còn không nuôi nổi nhưng Tràng vẫn quyết định đưa thị về làm vợ: + Đó là một hành động liểu lĩnh, nông nổi + Đó cũng chính là khát khao hạnh phúc luôn hiện hữu + Chứa đựng tình thương đối với người gặp hoàn cảnh khó khăn. - Quyết định rước thị về làm vợ + Lúc đầu: có chút phân vân, do dự và cả lo lắng “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng. + Nhưng rồi anh tặc lưỡi “Chậc kệ!”, Tràng quyết định đánh đổi tất cả để có vợ, có được hạnh phúc
- Tràng là người nghèo khổ như bao người dân lao động khác nhưng anh luôn khao khát có một gia đình hạnh phúc. Thế nên khi cho thị ăn xong, Tràng vừa cười vừa nói với vẻ nửa đùa nửa thật “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Khi quyết định như vậy không phải là Tràng không suy tính hay không ý thức được hoàn cảnh của mình, bởi trước đó Tràng đã “chợn” nghĩ: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng”. nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc, kệ!”. Đó là cái tặc lưỡi liều lĩnh bước qua nỗi lo về cơn đói kém. Tràng đã không nỡ từ chối người đàn bà, anh hiểu thị quá đói không biết nương tựa vào đâu mới đành tựa vào Tràng. Thế nên, anh đã chấp nhận thị. Quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo khổ. Khát vọng ấy đã xua tan bao nỗi lo lắng trong lòng anh, đã thể hiện ý đồ cụ thể của Kim Lân: “Trong cái đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng”. - Tràng rất tâm lí, yêu thương và quan tâm đến người bạn đời của mình: + Đưa thị vào chợ “mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”. + Ra “đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về” - Tâm trạng trên đường đưa dâu về nhà, Tràng vui như nhìn thấy hạnh phúc trước mắt: + Tràng không cúi mặt mà “phớn phở khác thường”, “hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh vênh tự đắc với mình”. Sáng hôm sau khi thức dậy, Tràng “một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”: + “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” – cảm giác hạnh phúc mang lại thật khó tả, bởi “việc có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngiwx ngàng như không phải”. Nhà văn Tô Hoài cho rằng “ Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Và ở Tràng, Kim Lân đã miêu tả diễn biến hành động để tô đậm cho vẻ đẹp tâm hồn trong anh. Dù chỉ là “vợ nhặt” nhưng Tràng tỏ ra trân trọng hạnh phúc gia đình. Anh rất quan tâm đến người đàn bà nghèo khổ. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Điều đó cho thấy trong cái đói Tràng vẫn hướng về sự sống, khát khao hạnh phúc gia đình đã làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng. Việc hai người xa lạ gắn bó với nhau trong cơn đói kém chứng tỏ họ quan tâm, nghĩ đến sự sống và Tràng nhờ vậy có được mái ấm gia đình. Vì thế niềm vui, nụ cười thường trực trên mặt Tràng. Niềm vui ấy được Kim Lân diễn tả rất sinh động. Trên đường đưa vợ về nhà “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thưởng. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Tràng bật cười khi lũ trẻ trêu chọc “Chông vợ hài”. Về đến xóm ngụ cư, trước ánh mắt tò mò, ngạc nhiên của mọi người, Tràng lấy làm thích ý lắm “mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui được vợ len lỏi tận ngõ ngách tâm hồn Tràng. Về đến nhà, Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên, nhìn thị, anh vẫn còn ngờ ngợ như không phải “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi hắn “tủm tỉm cười một mình”, nụ cười hạnh phúc của người đàn ông có mái ấm gia đình – điều mà trước đây Tràng chưa bao giờ nghĩ tới. Lúc chờ mẹ về, Tràng nóng ruột, rối rít như trẻ con chờ giới thiệu thị với mẹ. Khi bà cụ Tứ đồng ý, chấp thuận thị thì “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”. Niềm vui được vợ lan toả đến buổi sáng hôm sau. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thực sự thấy cuộc đời mình từ đây thay đổi hẳn, anh cảm thấy “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” và chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Đó là cái nhìn của người đang hạnh phúc. Kim Lân đã diễn tả rất tinh tế niềm vui, niềm hạnh phúc tràn ngập trong đầu Tràng. Luận điểm 4: Tràng ý thức về bổn phận gia đình + Cảnh vật xung quanh thấm thía và cảm động, Tràng như trưởng thành và chín chắn hơn trong phút chốc “Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà hắn lạ lùng”
- + Trong suy nghĩ “hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. + Hành động: “hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, dự phần tu sửa lại căn nhà” Hình ảnh “trong óc Tàng thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” co thấy tương lai chắc chắn trong đó cơ Tràng Có vợ, Tràng trở nên ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Trong những giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, con người bỗng cảm thấy mình trưởng thành hơn. Có vợ đối với Tràng như thay đổi cuộc đời, Tràng trở thành một người khác hẳn. Anh không còn lê từng bước mệt mỏi nữa mà giờ đây bước chân của Tràng nhanh nhẹn “xăm xăm chạy ra giữa sân”, “cũng muốn nhanh chóng làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Tràng không còn vô tư như trước mà đã có những suy nghĩ tới tổ ấm gia đình: “bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng ý thức được bổn phận, trách nhiệm của mình với việc gầy dựng, tạo lập cuộc sống hạnh phúc, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Dường như đối với Tràng bây giờ sự chết chóc không còn tồn tại mà chỉ còn những suy nghĩ hướng về sự sống. Anh mong muốn đổi đời, hướng đến tương lai tốt đẹp. Cuối tác phẩm là những suy nghĩ của Tràng về Việt Minh, những người phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo:“Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới ”. Hình ảnh đám người đói là những người nông dân nghèo khi bị đẩy đến bước đường cùng, đoàn kết cùng nhau đấu tranh thoát khỏi cái đói, còn lá cờ đỏ bay phấp phới là hình ảnh của tương lai, của con đường Cách mạng mà Tràng sẽ đi. Kết bài Với lối trần thuật tự nhiên, cốt truyện giản dị, xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách kể truyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị ,nhà văn Kim Lân đã miêu tả thành công những biến đổi tâm lí trong tâm trạng của nhân vật Tràng. Anh là người nông dân có những phẩm chất tốt đẹp: nhân hậu, khát khao hạnh phúc và tin tưởng vào tương lai. Tràng là hình ảnh tiêu biểu của những người lao động trong nạn đói với vẻ đẹp tâm hồn và những phẩm chất tốt đẹp. Qua nhân vật Tràng, người đọc cảm nhận được tình cảm của Kim Lân dành cho những người lao động nghèo khổ. Đó là những con người dù trong tình cảnh bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát cuộc sống hạnh phúc, vẫn hướng về tương lai.
- Đề 2: Cảm nhận về nhân vật thị - người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Mở bài: Các bạn tự chọn mở bài trong file TỔNG HỢP NHỮNG MỞ BÀI NÂNG CAO GIÚP CHỊ Thân bài Giới thiệu hiện thực nạn đói Pass đề 1 Luận điểm 1: Ngoại hình, hoàn cảnh, số phận của thị + Là nạn nhân của cái đói, chính nạn đói đã biến thị trở thành con người như thế. + Sống trôi nổi, bấp bênh: không tên, không tuổi, không nhà, không cửa, + Lần đầu xuất hiện: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi ở chợ tỉnh Nhà văn Kim Lân từng chia sẻ: “Tôi quan niệm truyện ngắn cũng là tiểu thuyết và điều quan trọng là nhân vật. nhân vật phải có tính cách và phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo, sáo rỗng”. Và nhân vật người vợ nhặt cũng là con người mang tính cách tự nhiên như thế. hình ảnh chị hiện lên đúng theo chuẩn quan niệm nghệ thuật mà Nam Cao từng phát biểu: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng khổ đau kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Người vợ nhặt bước vào trang sách của Kim Lân với lai lịch khá đặc biệt: không tên tuổi, không quê hương, gia đình, không nghề nghiệp ổn định. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật chỉ được gọi là cô, ả, thị, người đàn bà, Thị xuất hiện đầu tiên là người lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để “nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm” để kiếm sống. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả, thị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, sống tha phương cầu thực. Cái đói đã in hằn lên ngoại hình của thị “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị khiến người đọc nghĩ đến một con người thiếu sức sống như một bóng ma mấp mé bờ vực cái chết. + Khi nghe Tràng hò chơi “Muốn ăn cơm trắng mấy giò – Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”, thị cười tít mắt “lon ton chạy lại đẩy xe’ Cái đói làm thị trở nên vô duyên. + Lần thứ hai: “rách quá, áo quần tả tơi con mắt” + Vì đói mà thị trở nên “chao chát, chỏng lỏn, chua ngoa, đanh đá”, thị ‘cong cớn, sưng sỉa” + Khi được ăn thị “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền”, thị quên việc phải ý tứ, tự trọng Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân khắc hoạ với tính cách rất đặc biệt. Đó là người phụ nữ bạo dạn tới mức trơ trẽn. Khi nghe Tràng cất lên câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!” Thị đã cong cớn đối đáp “Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Rồi thị ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng và “liếc mắt, cười tít”. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến, sưng sỉa trách: “Điêu! Người thế mà điêu”. Còn đâu nữa hình ảnh một người phụ nữ ý tứ, dịu dàng, cái đói đã làm mất đi vẻ nữ tính của thị. Thị quả là kẻ cùng đường. Hơn thế nữa vì đói nên thị đã gợi ý để được ăn “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe “Rích bố cu”, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên” thị đon đả: Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Thị đang đói, cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một người con gái trước người đàn ông xa lạ. “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách của người phụ nữ. Bất ngờ hơn nữa khi Tràng nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, thị đã theo về thật, thị trao thân gửi phận cho người đàn ông không quen biết. Thân phận của người phụ nữ trong nạn đói thật rẻ rúng. Ca dao có câu: “Ba trăm một mụ đàn bà – Mua về để trải chiếu hoa mà ngồi”, còn thị chỉ được cân đo đong đếm bằng
- bữa ăn bốn bát bánh đúc. Thị vừa là nạn nhân thê thảm của nạn đói vừa là bản cáo trạng đanh thép về xã hội đương thời. Luận điểm 3: Thị là người khát khao hạnh phúc gia đình (giàu nữ tính). Nhưng ngòi bút nhân đạo của Kim Lân không dừng lại ở biểu hiện bên ngoài của nhân vật mà đi sâu khám phá vẻ đẹp tâm hồn bị khuất lấp của người lao động, phát hiện những nét đẹp tâm hồn, giàu nữ tính của thị do bị cái đói che lấp đi. Trước hết, nhà văn phát hiện thị là người giàu nữ tính biết e thẹn, ngượng ngùng khi theo không Tràng về nhà. Trên đường theo Tràng về, thị vừa xấu hổ, tủi nhục, thiếu tự tin. Hình ảnh thị đi sau Tràng thật tội nghiệp “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình là người vợ theo không. Thị nào có quyền lựa chọn nên đành chấp nhận số phận. Với thị, con đường từ chợ về nhà Tràng là con đường dài nhất thị phải đi trong đời, bởi không biết cái gì đang chờ đợi mình, liệu thị có được đón nhận không? Biết bao câu hỏi đặt ra trong lòng thị. Thị càng ngượng nghịu hơn nữa khi nghe những lời bàn tán cùng ánh mắt tò mò của người dân ngụ cư khiến “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về tới nhà Tràng, thấy “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, trong nhà niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thị đảo mắt nhìn quanh nén một tiếng thở dài. Đó là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng, xen lẫn những lo âu về cuộc sống của thị trong căn này nhà này. Nhưng thị vẫn bước vào trong nhà rồi ngồi mớm xuống mép giường, “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Một tư thế ngồi đầy tâm trạng với bao lo lắng. Ngay cả khi gặp bà cụ Tứ - mẹ của Tràng thì thị càng e thẹn, khép nép. Đây là thái độ tủi hờn cho thân phận của người con gái đi lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, cũng chẳng cưới xin. Tình cảnh của thị thật đáng thương, nhưng thị chấp nhận. Điều đó chứng tỏ thị muốn có một cuộc sống gia đình hạnh phúc như Kim Lân từng nói: “Trong cái đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng”. Luận điểm 4: Thị là người có ý thức về trách nhiệm, bổn phận của mình Khi có mái ấm gia đình, được sống trong tình yêu thương, lòng nhân hậu của mẹ con Tràng, thị trở thành người đảm đang, hiền hậu, ý thức về bổn phận của mình, thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm bằng những hành động cụ thể: nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, sạch sẽ, quần áo rách như tổ đỉa được đem ra sân phơi, hai cái ang được đổ đầy nước, đống rác đã được hốt sạch. Có bàn tay của thị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa hơn, sự sống đã trở về với cảnh, với người. Sự thay đổi của thị khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng niềm hạnh phúc gia đình đã khiến thị tu chí làm ăn? Thị đã đem lại niềm vui, sinh khí mới cho gia đình Tràng. Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua chi tiết rất nhỏ nhưng đầy ý nghĩa. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi bà cụ Tứ đưa cho thị bát chè cám “hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách ứng xử của người vợ nhặt. Thị hiểu ra cơ cực của mẹ con Tràng nhưng không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ già tội nghiệp. Những vẻ đẹp tiềm ẩn, khuất lấp trong người vợ nhặt đã được Kim Lân miêu tả thật tinh tế với thái độ đầy trân trọng, ngợi ca. Hơn nữa, trong bữa cơm ngày đói khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã nói với mẹ và chồng “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói”. Thị là người giải thích cho mọi người hiểu việc làm của Việt Minh. Điều đó cho thấy thị khao khát cuộc sống ấm no, hướng đến tương lai. Thị đã thắp lên ánh sáng của niềm tin, hướng mọi người theo ngọn cờ Cách mạng. Kết bài Với lối trần thuật tự nhiên, cốt truyện giản dị, xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách kể truyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị ,
- Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật người vợ nhặt. Qua nhân vật này nhà văn tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít Nhật đã đẩy con người đến con đường cùng. Thế nhưng, trong cảnh ngộ bi đát ấy, họ vẫn luôn hướng tới sự sống, hướng tới tương lai tốt đẹp. Có thể nói người vợ nhặt là một điển hình của những mảnh đời trôi dạt qua nạn đói khủng khiếp: rẻ rúng, thảm thương nhưng có sức mạnh đánh thức niềm tin yêu cuộc sống cho mọi người. Người vợ nhặt chính là một đốm lửa trong ngọn lửa tình người thắp giữa đêm đen cuộc sống.
- Đề 3: Phân tích vẻ đẹp tình mẫu tử qua nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Mở bài: Các bạn tự chọn Thân bài Giới thiệu hiện thực nạn đói Pass đề 1 Luận điểm 1: Hoàn cảnh, số phận của bà cụ Tứ Bà cụ Tứ xuất hiện ở phần cuối truyện Vợ nhặt và được Kim Lân miêu tả mang chiều sâu tư tưởng, đậm chất nhân văn. Đó là người mẹ nông dân nghèo khó có cuộc đời cơ cực, đáng thương: tuổi già, goá bụa, sống thầm lặng ở xóm ngụ cư trong căn nhà rúm ró vắng teo. Bà xuất hiện trong bóng hoàng hôn với tiếng “húng hắng ho”, dáng đi lọng khọng của người mẹ gần đất xa trời. Cuộc sống nghèo khó, chạy ăn từng bữa bằng nghề đẩy xe bò thuê của Tràng – con trai bà nhưng bà lại là người giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh. Luận điểm 2: Thái độ ngạc nhiên của bà cụ Tứ khi chàng đưa vợ về nhà Nhân vật bà cụ Tứ được Kim Lân đặt trước một tình huống éo le vừa buồn, vừa vui, đó là con trai bà xấu trai, dân ngụ cư trong nạn đói hoành hành lại đưa một người đàn bà xa lạ về nhà. Sự việc này khiến bà không khỏi ngạc nhiên trước hết bà lấy làm lại khi thấy thằng con trai vừa thấy mẹ “reo lên như một đứa trẻ” và gọi với vào nhà “U đã về đấy!”. Bà như đoán được một điều gì đó không bình thường sắp xảy ra nên “phấp phỏng” bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà “đứng sững lại” hàng loạt câu hỏi được đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Bà ngạc nhiên đến độ như không tin vào mắt, vào tai mình, tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra và lập cập vào nhà, băn khoăn ngồi xuống giường, lòng đầy phân vân không sao kể xiết. Tại sao Kim Lân lại để bà cụ Tứ ngạc nhiên lâu đến vậy? Phải chăng vì đói kém mà làm người mẹ mất đi sự nhạy cảm vốn có? Hay vì giữa lúc “người chết như ngả rạ” việc con trai bà có vợ là điều ngoài tưởng tượng mà cả đời bà không bao giờ dám nghĩ đến. Luận điểm 3: Sự buồn tủi và xót thương con của bà cụ Tứ Vốn là người mẹ từng trải qua nhiều khổ đau, mất mát nên trước tình huống nhặt vợ của con trai, bà không khỏi tủi hờn, xót xa,“vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà thương con và tủi cho bản thân. Bà tự trách mình đã không “ăn nên làm nổi”, không làm tròn bổn phận với con: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì ”. Nhà nghèo quá, cũng không có dăm ba mâm ra mắt xóm làng. Trái tim người mẹ như đang rung lên đau đớn, xót xa trong thân hình già nua, còm cõi. Nỗi tủi hờn của người mẹ lâm vào hoàn cảnh cùng quẫn làm bà phải khóc, tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua những giọt nước mắt: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Những giọt nước mắt rỉ ra từ đôi mắt hằn sâu vết chân chim của một đời vất vả. Bà khóc cho cả nỗi buồn lẫn niềm vui của đời người. Nước mắt của nguoief già mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết trong “khóc dương khuê” “Tuổi già giọt lệ hai sương Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan” Luận điểm 4: Bà mừng vui và lo lắng cho hạnh phúc của con Thương con nên lòng bà cụ Tứ thấy mừng vì con cũng đã có vợ. Trong nỗi tủi hờn, người mẹ thấy cái may của con mình: “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”. Chồng mất sớm, đứa con gái út cũng qua đời, bà cụ sống ở xóm ngụ cư với đứa con trai luống tuổi mà vẫn còn độc thân. Thế nên, vượt qua nỗi buồn tủi, người mẹ vui với hạnh phúc của con. Thương con trai bà cảm thông với hoàn cảnh của người đàn bà xa lạ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Người mẹ yêu thương con chân thành, độ lượng, bao dung với người gặp khó khăn nên đã chấp nhận nàng dâu mới: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
- với nhau, u cũng mừng lòng”. Không có cổ bàn, chỉ có tấm lòng người mẹ, bà cụ Tứ nhẹ nhàng gọi người đàn bà là con, xưng u thân tình và xem đó là duyên kiếp vợ chồng nạn đói nên không nỡ từ chối. Tuy vui vì con có vợ nhưng lòng người mẹ ngổn ngang bao nỗi lo trong thời buổi đói kém. Bà cụ Tứ là người mẹ nông dân rất thực tế, bà biết“năm nay thì đói to”. Vì thế, tuy vui vì con có vợ nhưng niềm vui ấy không thể khỏa lấp nỗi lo: “lo gia đình nghèo túng, lo cho hạnh phúc con trai, con dâu ở hiện tại”. “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Trong giây phút ấy, người mẹ như thấu suốt cả quãng đời cơ cực của mình. Bóng tối trùm lấy hai con mắt dõi ra cánh đồng, bà lại nghĩ đến ông lão, nghĩ đến con gái út, “nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình” nên bà còn lo cho tương lai của con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Bao lo lắng ngổn ngang trong lòng mẹ. Thương con, thương dâu nên người mẹ khuyên bảo vợ chồng Tràng lo làm ăn để cuộc sống khá hơn: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”, và quan trọng là phải yêu thương, hòa thuận, “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Bà hiểu rõ sức mạnh lớn lao của yêu thương, hòa thuận -“Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Đó là nỗi lo và lời khuyên của người mẹ từng trải, hiểu đời, có tấm lòng yêu thương sâu thẳm đối với con, đối với những mảnh đời bất hạnh. Bà còn dùng triết lý nhân gian để nhen nhóm trong lòng con niềm tin vào cuộc sống của những người lao động. Thể hiện sức sống bất diệt của con người trong hoàn cảnh bi đát nhất. Luận điểm 5: Niềm vui, niềm tin vào tương lai Trong cảnh đói khổ, bà cụ Tứ vẫn có niềm vui, niềm tin vào cuộc sống, tin ở tương lai. Trong cảnh ngộ bi đát của nạn đói, bà cố tạo niềm vui, làm cho các con vui vẻ, tin vào cuộc sống. Trong hạnh phúc của con, người mẹ dường như đổi khác “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà tỏ ra nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, tạo niềm vui trong gia đình bằng cách sửa soạn vườn tược, quét dọn nhà cửa, bà nghĩ “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ hồ khấm khá hơn”. Mừng cho hạnh phúc của các con, bà chuẩn bị bữa ăn ngày đói. Trên “cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng cả gia đỉnh vẫn ăn rất ngon lành “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà hợp như thế”. Từ giây phút này, suy nghĩ của người mẹ hướng về tương lai. Trong bóng tối của đói nghèo vây quanh, bà gieo vào lòng con niềm tin vào cuộc sống, bà kể chuyện làm ăn và “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà định mua lấy đôi gà và bà như nhìn thấy viễn cảnh của một cuộc sống ấm no hạnh phúc “Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem ”. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình trong những ngày đói kém. Hết cháo loãng, bà chuẩn bị sẵn nồi cháo cám và tươi cười, đon đả gọi nồi cháo đắng chát là “chè khoán” và khen ngon đáo để. Bà còn động viên tinh thần con vượt lên lúc khó khăn “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bữa cơm ngày đói không khỏi làm chạnh lòng người đọc, vừa xót thương, cay đắng cho số phận của họ, vừa cảm phục về sức sống, tình người. Bát cháo cám ngày đói đã lên án mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật, đẩy người dân vào kiếp đời con vật, đồng thời thể hiện tình yêu thương, tấm lòng nhân hậu của người mẹ, niềm tin, niềm hi vọng của mọi người vượt qua đói kém để hướng đến cuộc sống tốt đẹp trong tương lai. Nhưng niềm vui nhỏ bé mong manh của người mẹ không cất cánh lên được, bị cái buồn, cái lo níu giữ. Nghe tiếng trống thúc thuế, tiếng khóc hờ của nhà có người chết vì đói khiến người mẹ phải khóc và nói “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ ”, rồi bà ngoảnh mặt đi chỗ khác “bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Những giọt nước mắt đã rơi vì tương lai mờ mịt của con, hạnh phúc dựng trên cái nền của đói nghèo thật lắm xót xa. Tuy vật, tác giả vẫn cho người đọc thấy ở người mẹ nghèo này niềm vui, niềm tin vào tương lai. Kết bài
- Với lối trần thuật tự nhiên, cốt truyện giản dị, xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, Kim Lân đã miêu tả diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chân thật, tinh tế, cảm động. Từ đó ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử: lòng nhân hậu, đức hi sinh vị tha của người mẹ nông dân nghèo khổ này. Có thể nói, nhân vật bà cụ Tứ mang nét đẹp đạo lí truyền thống: suốt đời sống vì con, yêu thương con, cưu mang những cảnh đời tội nghiệp và nhất là có ý chí sống mãnh liệt. Hình ảnh bà cụ Tứ là ánh sáng của truyện ngắn Vợ nhặt, góp phần làm nổi bật giá trị nội dung nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Kim Lân.