Tổng hợp những mở bài nâng cao môn Ngữ văn Lớp 12

docx 22 trang Hùng Thuận 21/05/2022 30711
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tổng hợp những mở bài nâng cao môn Ngữ văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtong_hop_nhung_mo_bai_nang_cao_mon_ngu_van_lop_12.docx

Nội dung text: Tổng hợp những mở bài nâng cao môn Ngữ văn Lớp 12

  1. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 TỔNG HỢP NHỮNG MỞ BÀI NÂNG CAO Bài 1: Tây Tiến – Quang Dũng Mở bài 1: Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc hoạ một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngả xuống vì nền độc lập của Tổ Quốc trong suốt thời kì lịch sử. Và “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những năm tháng gian khổ ấy bất tử theo thời gian. Điều đó được thể hiện rõ nhất Mở bài 2: Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn mình thăng hoa trong những lời thơ tràn đầy cảm xúc: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn » Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua những cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Tiến đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ trích dưới đây đã làm nổi bật Mở bài 3 : Nhà thơ Hàn Mặc Tử một thời từng rao bán : « Ai mua ta bán túi thơ đây Đổi lấy tiền tiêu với tháng ngày » Nhưng chính ông cũng là người đã sống, đã nhiệt huyết hoan ca và đau khổ cùng thơ. Bởi lẽ thơ ca nói riêng hay văn học nghệ thuật nói chung là địa hạt để nhà nghệ sĩ giải thoát những rung động nội tâm và bày tỏ những khao khát thường trực. Mỗi một tác phẩm phải là « kết quả của tình yêu » và là giây phút nhà văn « vắt kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại », để từ đó mà kết quả tình yêu ấy được kết tinh từ chiều sâu tâm hồn, trở thành nốt nhạc được rung lên từ chính cảm xúc chân thật của người nghệ sĩ. Và có lẽ bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cũng vậy. Bài thơ là kết tinh từ những hoài niệm miên man của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với binh đoàn Tây Tiến gian lao mà hào hùng, từ nỗi nhớ thương dạt dào, tha thiết của nhà thơ về một thời anh dũng đã qua. [Trích dẫn đề] Mở bài 4: Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ Nghĩ lại về Pau-xtop-xki – nhà thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Vâng! Có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, như “bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” để rồi in dấu ấn và chạm khắc trong tâm khảm ta những gì đẹp nhất để “suốt đời đi vẫn nhớ”. Đó phải chăng là những tác phẩm đã “vượt qua mọi băng hoại” của thời gian trở thành “bài ca đi cùng năm tháng” để lại trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ những dư vang không thể nào quên. Một trong số bài ca NGỮ VĂN | 1
  2. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 đó phải kể đến “Tây Tiến” của người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Trong bài thơ có những vần thơ thật lắng đọng, đặc biệt là [dẫn đề]. Mở bài 5: Nhà thơ Sóng Hồng từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Bước vào những trang văn học giai đoạn 1945-1954, chúng ta được sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt nhưng cũng đầy những gian khổ, hi sinh của dân tộc. Trong những trang viết ấy thấm đẫm máu, nước mắt và mồ hôi của những người lính trên chặng đường hành quân. Anh chính là “con người đẹp nhất” của thế kỉ XX, “là hạt giống để mùa sau” là “điểm tựa cho lịch sử”, vì vậy, hình ảnh anh thu hút nhiều bút mực. Trong đó phải kể đến Tây Tiến của Quang Dũng. Tây Tiến đã tái hiện hình ảnh một đất nước ngày đêm đánh giặc, với những cuộc hành quân không ngừng nghỉ ghi dấu trong từng lời thơ. [Trích dẫn đề]. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Quang Dũng là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông mang một hồn thơ “trung hậu, yêu tha thiết quê hương, đất nước mình”. Trong thơ của Quang Dũng có hình ảnh một cái tôi tài hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ tinh tế của thiên nhiên con người. Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào hoa lãng mạn. Bài thơ viết đầu năm 1948 sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947. Ban đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Năm 1957 in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề thành “Tây Tiến”. Bài thơ được viết ra bằng những cảm xúc chân thành, sâu sắc của Quang Dũng khi rời xa binh đoàn Tây Tiến năm 1948. Giáo sư Hà Minh Đức tinh tế đánh giá “Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ đe[j bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương” Bài 2: Việt Bắc – Tố Hữu Mở bài 1: “Chín năm làm một điện biên Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” Tố Hữu Cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng, thắng lợi vẻ vang của dân tộc đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Tố Hữu đã ghi lại những bước thăng trầm của đất nước bằng những vần thơ mang đậm khuynh hướng sử thi mang cảm hứng lãng mạn. Việt Bắc là một trong những thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã thể hiện tình cảm sâu nặng giữa cán bộ kháng chiến và người dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. [Trích dẫn đề]. Mở bài 2: “Mỗi công dân có một dạng vân tay Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ Không trộn lẫn”. (“Vân chữ” – Lê Đạt) “Vân chữ” ở đây chính là phong cách nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ. Được biết tới với hình ảnh lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng, Tố Hữu đi giữa làng thơ với một phong cách nghệ thuật độc đáo, không thể pha trộn, không thể tìm thấy ở đâu. Thơ Tố Hữu mang tính trữ NGỮ VĂN | 2
  3. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 tình, chính trị sâu sắc, đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp từ “vân chữ” của người cách mạng ấy phải kể tới bài thơ “Việt Bắc” – khúc hùng ca, tình ca kháng chiến. [Trích dẫn đề]. Mở bài 3: “Chín năm làm một điện biên Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” Tố Hữu Đã từ rất lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của sự kháng chiến chống giặc, quê hương của những anh hùng, đây là mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng trĩu ân tình khiến ai đã đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xuyến xao. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương, trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng đến rồi phải đi. Có người đã từng nói: “Thơ chỉ trào ra khi trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”, chính từ những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc con người để rồi nhà thơ Tố Hữu – Một người lính đã từng gắn bó sâu đậm với mảnh đất này viết nên tác phẩm Việt Bắc – tuyệt tác của đời mình. Tác phẩm là một khúc ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như lời hát về tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa những con người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc đã được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân. Mở bài 4: Nếu ai đã từng thả hồn mình lên núi rừng quê hương đất nước thanh bình, tận hưởng cái hồn quê man mác, với những dòng sông đỏ nặng phù sa nơi chất chứa những tâm tư, thổn thức tự đáy tâm hồn của bao thi sĩ thì chắc hẳn không thể quên “Việt Bắc” của Tố Hữu. Cứ như là gió mênh mang, là mây xanh thăm thẳm chở nỗi nhớ đi muôn dặm, Tố Hữu đã đưa ta từ cõi quên về cõi nhớ. Nhớ về mảnh đất Việt Bắc ân tình – thuỷ chung của kháng chiến, của quê hương những con người với tấm “áo chàm” nghèo khó nhưng vẫn “đậm đà lòng son” khiến bất cứ ai đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xao xuyến. [Trích dẫn đề]. Mở bài 5: Maksim Gorky – nhà văn nổi tiếng của nền văn học Nga từng khẳng định: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi”. Thật vậy, văn học dân gian là mảnh đất ngọt ngào nuôi dưỡng nguồn cảm hứng dạt dào sâu sắc cho biết bao thi nhân, văn nhân từ bao đời nay. Và đến với những vần thơ trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, những vần thơ của một thi sĩ “đắm mình trong lòng dân tộc”, ta nhận ra cái phong vị nhân gian tưởng chừng như bầu khí quyển ôm trọn lấy từng dòng thơ, từng câu chữ, quyện hoà tinh tế trong những dòng cảm xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân. [Trích dẫn đề]. Mở bài 6: “Muốn bao tà áo xanh mùa thu Muốn bao quầng mắt đa tình sao Lòng dù xao xuyến nhớ em nhiều quá Anh nhớ tới em những khi chiều xuống Dường về Việt Bắc xa xa núi đồi” (Đường về Việt Bắc – Từ Linh) Ai đưa ta về với những điệu hồn của tình yêu để mảnh đất Việt Bắc trở thành chiếc nôi xinh nuôi dưỡng tâm hồn bao con người thương mến nhau? Việt Bắc đã trở thành mảnh đất để NGỮ VĂN | 3
  4. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 thương để nhớ đối với những người yêu nhau và cả những con người sống và chiến đấu nơi đay. Có nơi nào đẹp hơn trong ánh mắt anh với những chiều “nhớ em nhiều quá”, và có nơi nào đẹp hơn Việt bắc trong ánh mắt của người chiến sĩ nhớ về mảnh đất “áo chàm” nghèo khó những vẫn “đậm đà lòng son”. Những tình cảm chân thành, tha thiết của người chiến sĩ đã được Tố Hữu lấp toả, dâng đầy trong bài thơ Việt Bắc. [Trích dẫn đề]. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Tố Hữu là một chiến sĩ – thi sĩ, làm thơ trước hết là để phục vụ sự nghiệp cách mạng, cho lí tưởng của Đảng, cho công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, hồn thơ Tố Hữu thường vô cùng tinh tế và nhạy bén với những sự kiện trọng đại trong đời sống dân tộc và cách mạng, cất lên những khúc ca dạt dào cảm xúc thời đại và tiếng lòng của động đảo nhân dân trong sự kiện quan trọng. Xuân Diệu đã từng khẳng định: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” Đoạn thơ trên được trích từ bài thơ “Việt Bắc” trong tập thơ cùng tên, là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu, là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam, được sáng tác tháng 10/1950, miền Bắc giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ chuyển về Hà Nội. Việt Bắc là bản trường ca đầy ân tình quê hương đất nước tình nghĩa giữa cán bộ cách mạng và những con người kháng chiến. Bài 3: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm Mở bài 1: Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp gỡ đất nước đang đổi mới ngày qua ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiều ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả. Mở bài 2: Đất nước đã nghiêng vào trong thơ ca, nghệ thuật như một điểm hẹn về tâm hồn của rất nhiều văn nghệ sĩ. Xuân Diệu đã từng viết: “Tổ quốc tôi như một con tàu Mũi thuyền ra đó mũi Cà Mau” Hay Chế Lan Viên đã không kìm lòng mình mà thốt lên rằng: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng Chưa đâu và cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn” Thì Nguyễn Khoa Điềm – Một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ đã gặp gỡ đề tài này bằng tập thơ “Trường ca Mặt đường khát vọng” trong đó chương V là chương trung tâm kết nối tác phẩm bằng hình tượng nghệ thuật trung tâm là Đất Nước. Bằng là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình điểm nhìn gần gũi, quen thuộc, bình dị, NGỮ VĂN | 4
  5. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 khác hẳn với những nhà thơ cùng thời để miêu tả về Đất Nước và để thể hiện quan niệm vô cùng mới mẻ và sâu sắc. Mở bài 3: Có người từng nói rằng: “Một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mẻ mà cần một đôi mắt mới”. Văn học cũng vậy, cùng một chủ đề nhưng dưới ngòi bút của mình, mỗi nhà văn lại khiến trang viết của mình chạm đến cảm xúc của người đọc theo một cách riêng. Đất nước có thể nói là một chủ đề “truyền thống” của nền văn hoá nước nhà. Đến với tác phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm người đọc có thể cảm nhận được một đất nước bình dị, gần gũi với cuộc sống của mỗi người. [Trích dẫn đề]. Mở bài 5: Đất Nước là tiếng ca bay vút lên từ thẳm sâu tình yêu con người, là giọt đàn bầu thon thả gọi về điệu hồn dân tộc. Ta đã từng bắt gặp một Đất Nước hoá thân trong mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm màu sắc dân gian mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm; một Đất Nước tươi đẹp và đau thương trong thơ Nguyễn Đình Thi thì hôm nay ta lại bắt gặp Đất Nước bình dị thân thương ấy trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm với bao ý tình tươi đẹp, mà mỗi dòng thơ như dòng suối ngọt ngào chảy vào hồn ta đầy thương mến. [Trích dẫn đề]. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, cùng thời với Phạm Tiến Duật, Bằng Việt và Xuân Quỳnh. Ông từng hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên đấu tranh ở đô thị miền Nam. Với phong cách viết riêng biệt tạo nên bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, thơ ông luôn có sự thu hút đối với độc giả. Có thể nói, chưa bao giờ trường ca lại nở rộ đến thế như trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, và Nguyễn Khoa Điềm cũng có riêng cho mình một trường ca mang tên “Mặt đường khát vọng”. “Đất Nước” được trích từ chương V của trường ca này. Tác phẩm được ra đời năm 1971, vào lúc thời kì kháng chiến của đất nước đang diễn ra vô cùng ác liệt. Lúc này tác giả đang ở khu Trị - Thiên. Với tình yêu nước nồng nàn và trách nhiệm công dân, ông đã nhận ra được một bộ phận tuổi trẻ dang xa vời với hiện thực của tổ quốc, ông viết tác phẩm như để thức tỉnh họ quay về với lời tự tình dân tộc. Bài 4: Sóng – Xuân Quỳnh Mở bài 1: Nhà thơ Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình Việt Nam đã từng viết trong thi phẩm của mình: “Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết” Khi đọc những vần thơ này, tôi lại tự bồi hồi hỏi lòng chẳng rõ, rằng tình yêu là gì mà khiến cho hàng triệu triệu con người trên thế giới này cứ quyến luyến, đắm say. Đối với tình yêu, những người bình thường như chúng ta còn đượm nồng rung động huống chi những người nghệ sĩ – những con người luôn mang trong mình những tế bào cảm xúc nhiều hơn. Trong văn đàn Việt Nam, có rất nhiều nhà thơ viết về tình yêu như Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh viết nhiều, viết rất hay về tình yêu, tiêu biểu nhất trong những sáng tác ấy là bài thơ “Sóng”. [Trích dẫn đề]. NGỮ VĂN | 5
  6. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 Mở bài 2: Nếu xưa kia, Nguyễn Bính đã say trong niềm thương nỗi nhớ sâu nặng để viết nên những dòng thơ đầy tình ái: “Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy Tôi uống cả em vô uống có Mặt trời quan tá, mấy cho say” Thì giờ đây ta lại bắt gặp một trái tim yêu, một tâm hồn yêu, một con người đắm say trong không gian ngập đầy cảm xúc nồng nàn, quyến luyến của chữ “yêu” ấy là Xuân Quỳnh – con người sinh ra cứ làm thơ để yêu thơ. Tất cả khát khao về một tình yêu vĩnh cửu chị gửi trọn vào thi phẩm với tiêu đề giản dị “Sóng”. Với Xuân Quỳnh, “Sóng” là cả một bầu trời tâm tư tình cảm là tất cả sự cháy bỏng và rạo rực nhất của trái tim tình yêu mãnh liệt. Đây cũng là một thi phẩm tiêu biểu cho tâm hồn đang yêu của người phụ nữ, và cũng là điểm sáng trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh. Mở bài 3: Có ai yêu một loài hoa không hương, không sắc; Có ai yêu cánh chim bay không gửi lại cuộc đời tiếng hát ngọt ngào, đắm say; có ai yêu những áng văn chương nghệ thuật ép khô vào xác chữ vô cảm; bởi tư tưởng tình cảm chính là linh hồn của văn chương hay hương sắc, tiếng ca là linh hồn của một đời hoa, đời chim vậy. Đến với những trang thơ của Xuân Quỳnh ta nghe được điệu tình đang ngân vang trong những lời thơ mà ở đó chất chứa cả những nhịp đập của một trái tim thi sĩ. Một trái tim giàu lòng trắc ẩn, nồng nàn khao khát và luôn thành thực với tình yêu. Tình cảm ấy được Xuân Quỳnh gửi gắm qua “Sóng” – thi phẩm đã tạo nên sức đồng cảm mãnh liệt khi đã thể hiện cùng kiệt nỗi yêu thương và khát vọng về một tình yêu cao cả, bất diệt của nhân vật trữ tình. [Trích dẫn đề]. Mở bài 4: Nguyễn Đình Thi từng nói thế này: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, là tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống. Toé lên ở những nơi giao nhau của tâm hồn và ngoại vật trước hết là những cảm xúc. Cảm xúc là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn”. Bằng thứ cảm xúc chân thật ấy, Xuân Quỳnh đã để tiếng lòng của mình ngân vang qua từng câu chữ trong tác phẩm “Sóng”, để rồi vẻ đẹp trong tình yêu cứ hằn mãi trong lòng người đọc. [Trích dẫn đề]. Mở bài 5: Từ trước đến nay, tình yêu luôn là thứ không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người, Xuân Diệu từng viết: “Làm sao sống được mà không yêu Không nhớ không thương một kẻ nào” (Bài thơ tuổi nhỏ - Xuân Diệu) Đó cũng là lí do tình yêu được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà thơ, nhà văn từng viết về tình yêu nhưng có lẽ sâu sắc nhất phải kể đến hai cây bút thơ tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam, đó là Xuân Quỳnh và Xuân Diệu. Nếu như Xuân Diệu từng làm mưa làm gió khiến người đọc nhớ mãi khi đặt tất cả dấu ấn tình yêu mãnh liệt của mình với “biển” thì Xuân Quỳnh – một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái qua hình ảnh “Sóng”. Khu nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của NGỮ VĂN | 6
  7. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 mỗi người yêu văn chương đều biết tiếng thơ chị là tiếng nói nhân hậu, thuỷ chung, giàu trực cảm và tha thiết khát vọng hạnh phúc đời thường. Một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Quỳnh phải kể đến “Hoa dọc chiến hào” với linh hồn là bài thơ “Sóng” được tác giả biết nhân một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền năm 1967. [Trích dẫn đề] Mở bài 6: Văn học tựa như một dòng sông chảy mãi theo thời gian, trên dòng sông văn học ấm áp và tươi xanh đó, biết đếm sao cho biết những dáng núi, những hàng cây nghiêng mình bên dòng nước, những con óng vỗ vào bờ xa. Những hình ảnh ấy chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của quê hương đất nước thanh bình, mang cái linh hồn của dân tộc. Và khi bước vào thơ ca nó còn mang những màu sắc kì diệu đó không chỉ là thiên nhiên hùng vĩ rộng lớn mà nó còn biểu tượng cho mảnh tâm hồn thi sĩ. Đọc « Sóng » của Xuân Quỳnh ta không khỏi bỡ ngỡ trước những con sóng của tình yêu đang dâng ngập lên từng hơi thở của nàng thi sĩ. Sóng là hoá thân của nhân vật trữ tình mang trong mình nhiều cảm xúc mãnh liệt, đó là những con óng dịu êm, lặng lẽ nhưng cũng chất chứa đầy biến động hiểm nguy – một tình yêu vừa chân thành, đằm thắm nhưng mang một khát khao mãnh liệt. [Trích dẫn đề] Mở bài 7 : Xưa kia, nhà thơ Hàn Mặc Tử từng mong chờ : « Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh Không mong gì hơn chờ đợi tấm lòng thơ » Người nghệ sĩ đi vào thơ như đi vào thế giới rộng mở của tâm hồn. Nơi ấy, anh đã « Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn. Sống toàn thân và thức nhọn giác quan ». Nơi ấy, anh hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại, anh đem hết « những âu lo, suy tư, hạnh phúc, khổ đau một thời làm củi » mà cháy hết mình cho những thường trực trong tim. Không mong gì hơn, anh muốn « chờ đợi tấm lòng thơ », muốn những ai yêu thơ thấu hiểu nỗi lòng mình. Bởi lẽ, « thơ là những điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu », « thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình ». Và phải chăng, khi hoài niệm nên đứa con tinh thần Sóng, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh với những suy tư, trăn trở của một người phụ nữ khi đối mặt với tình yêu, cũng mong muốn, khát khao tìm được những điệu hồn đồng điệu như thế. Để rồi những lời thơ ngân lên như bản hoà ca sâu lắng nói hộ lòng thi sĩ như nói hộ lòng những người phụ nữ đang yêu. [Trích dẫn đề]. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Diệp Tiếp từng khẳng định “Thơ là tiếng lòng”. Đúng vậy, thơ ca chính là nơi bến đỗ tâm hồn neo đậu, là nơi thể hiện những cảm xúc từ trong trái tim của các nhà thơ, nhà văn. Ở Xuân Quỳnh cũng vậy, ta đã từng bắt gặp tiếng thơ chân thành, mãnh liệt với những khao khát hạnh phúc đời thường. Thơ Xuân Quỳnh thể hiện tiếng lòng của một người phụ nữ vừa hồn nhiên, yêu đời, vừa tươi tắn, chân thành, đằm thắm luôn da diết khát vọng tình yêu bình dị sâu sắc. “Sóng” là bông “hoa dọc chiến hào” xinh xắn, đáng yêu bậc nhất mà Xuân Quỳnh hái được nhân chuyến đi tới vùng biển Diêm Điền (Thái Bình) năm 1967; năm 1968, bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Thông qua hình tượng sóng, thi sĩ giải bày những cung bậc cảm xúc và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Bài 5: Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân Mở bài 1: “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy NGỮ VĂN | 7
  8. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 Thì xa xôi gấp mấy vẫn lên đường Sống ở thủ đô mà dạ để mười phường Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lên” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Hoà chung với không khí sôi nổi của cả nước khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với xu hướng đi đến những vùng cao để phục hồi kinh tế với tiếng hát đầy sông, đầy cầu thì Nguyễn Tuân đã lựa chọn Tây Bắc làm miền đất hứa để viết lên tuyệt tác của đời mình. Ông không đi theo lối mòn khi viết về những “cái tôi” còn buồn như Huy Cận, Chế Lan Viên – những “cái tôi” luôn cô đơn trước vũ trụ, cô đơn giữa dòng đời. Nguyễn Tuân đã khéo léo để “cái tôi” cá nhân của mình hoà chung với “cái ta” của cộng động và mở ra một trào lưu văn học mới để rồi tất cả được kết tinh trong tập “Tuỳ bút sông Đà” mà linh hồn của nó chính là cái đẹp, cái đẹp ở đây chính là nghệ thuật, mà khi nói đến nghệ thuật cũng chính là cái đẹp, với Nguyễn Tuân, con người chính là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất mà tạo hoá ban tặng. Cái đẹp ấy được Nguyễn Tuân phát hiện ra trong “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Tây Bắc, ở những con người đang gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương, đất nước. Chất vàng mười ấy chính là vẻ đẹp của người lái đò sông Đà, dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Tuân đoá vừa là người anh hùng vừa là nghệ sĩ tài hoa trên chính nghề nghiệp của mình. Mở bài 2: Dòng sông có lẽ đã trở thành bến đỗ tâm hồn của nhiều nhà thơ, Hoàng Cầm hát về sông Đuống “nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”, Văn Cao hát về sông Lô với một điệu hồn hùng tráng và mãnh liệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại viết về sông Hương với một điệu hồn êm dịu. Một nhà văn độc đáo như Nguyễn Tuân cũng hát – hát về sông Đà bằng tất cả sự hiểu biết và tâm tư. Hình tượng con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình với những nét tính cách khác nhau vừng hung bạo, vừa trữ tình được Nguyễn Tuân tái hiện bằng một thế giới ngôn từ vô cùng sống động trong “Người lái đò sông Đà”. [Trích dẫn đề] Mở bài 3: “Qua nửa đời phiêu dạt Con lại về úp mặt vào sông quê Ơi con sông dạt dào như lòng mẹ Chở che cho con qua chớp bể mưa nguồn” Vâng, chẳng biết từ khi nào, những dòng sông đã trở thành sợi thương, sợi nhớ nhân lên thành tình yêu trong trái tim của những người nghệ sĩ. Để rồi, tình yêu ấy gợi nhắc chp những câu hát; là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng những vần thơ, là làn gió ấm thổi vào từng áng văn. Dẫu đó có là một dòng dông mênh mông, hoang vắng, mang nỗi buồn man mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trong “Tràng giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm hoặc cũng có thể là một sông Hương với vẻ đẹp người con gái Huế mộng mơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường Tất cả đều đọng lại trong tâm trí độc giả những cảm xúc khó quên. Và Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp, nghiêm túc và khó tính khi viết cái đẹp cũng bị đắm say và ngất ngây trước vẻ đẹp dòng Đà giang của núi rừng Tây Bắc qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Ông viết về dòng sông, nhưng là dòng sông có linh hồn và tính cách. Đó cũng là nguyên do, mà nó hung bạo chẳng kém gì con người lúc đương đầu với sóng gió, đặc biệt là đoạn đá bờ sông dựng vách thành hiểm trở và đoạn mặt ghềnh Hát Lóong dữ dội. NGỮ VĂN | 8
  9. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 Mở bài 4: Đã có biết bao vần thơ hào hùng về dòng sông Đà linh thiêng, gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại thương nhớ trong lòng tôi mãi khôn nguôi. Nhưng những dư âm ấy, có lẽ sẽ dần bị nhạt phai nếu tôi không đắm mình vào thế giới văn chương hiện đại, vào những trang viết về dòng sông này thêm một lần nữa. Và tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân đến như sợi tơ hồng hàn gắn lại những cảm xúc kì lạ, vun vén tình yêu quê hương đất nước, tình yêu với những con người đang ngày đêm lao động thầm lặng nơi núi rừng Tây Bắc thân yêu! Không ai khác, đó chính là hình tượng người lái đò sông Đà trong tuỳ bút cùng tên của nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp” – Nguyễn Tuân. Mở bài 5: “Tây Bắc ơi có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hoá những con tàu” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Tây Bắc – miền đất hứa của thi ca nghệ thuật đã trở thành điểm dừng chân của biết bao các nhà văn, nhà thơ trong đó có Nguyễn Tuân. Sau chuyến đi gian khổ tới miền Tây Bắc rộng lớn hoang vu hoang vu nhưng ẩn chứa nhiều vẻ đẹp hoang dại, kì bí của thiên nhiên. Ông đã tìm thấy trong sương khói Tây Bắc ẩn hiện lên chất vàng của thiên nhiên nơi đây, và thứ “vàng mười” đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc. Vẻ đẹp ấy hội tụ và toả sáng trong “Người lái đò sông Đà” tác phẩm được viết và in trong tập “Sông Đà”. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Paustovsky từng quan niệm “Niềm vui của nhà văn chân chính là người dẫn đường tới xứ sở của cái đẹp”. Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế! Một nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp” (theo cách nói của Nguyễn Đình Thi). “Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo, thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như tôn giáo của mình” (Trần Đình Sử). Hầu hết các sáng tác của Nguyễn Tuân là hành trình đi tìm cái đẹp trong thiên nhiên và con người. Bằng phong cách tài hoa, uyên bác, không quản khó nhọc để khai thác khi cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm ra những chữ xác đáng nhất có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó có tập tuỳ bút “Sông Đà”. “Sông Đà” là thành tựu nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ tới miền Tây Bắc rộng lớn, hoang vu nhưng ẩn chứa nhiều vẻ đẹp hoang dại, kì bí của thiên nhiên. Ông đã tìm thấy trong sương khói Tây Bắc ẩn hiện lên chất vàng của thiên nhiên nơi đây, và thứ “vàng mười” đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc. Vẻ đẹp ấy hội tụ và toả sáng trong “Người lái đò sông Đà” tác phẩm được viết và in trong tập “Sông Đà” năm 1960. Bài 6: Ai đã đặt tên cho dòng sông Mở bài 1: Nhà thơ Thu Bồn từng có những vần thơ da diết khi viết về sông Hương: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” Con sông rất thơ ấy đã trở thành bến đỗ tâm hồn cho những tâm hồn nghệ sĩ được cất cánh và thắng hoa. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa mình thâm nhập vào trong nhịp điệu sâu xa nhất của dòng sông để cất lên những lời ca đầy trìu mến, thân thương để rồi bâng khuâng tự hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” [Trích dẫn đề]. Mở bài 2: NGỮ VĂN | 9
  10. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 Lê Uyển Văn từng nhận xét: “Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình”. Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, chúng ta có thể thấy bằng tình yêu ấy, nhà văn đã phát hiện và miêu tả vẻ đẹp nổi bật của sông Hương và cảnh sắc thiên nhiên tình tứ, thơ mộng [Trích dẫn đề]. Mở bài 3 “Một lần anh đến Huế thơ Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng Sông Hương quyến rũ lạ lùng Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi” Sông Hương đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một niềm cảm hứng bất tận với tất cả văn nghệ sĩ, nhưng dù là trong tác phẩm nào đi chăng nữa sông Hương vẫn luôn mang một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, quyến rũ khiến ai cũng phải mê đắm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “phải lòng” sông Hương – xứ Huế như một lần gặp gỡ định mệnh để rồi gắn bó với mảnh đất này hơn 40 năm. Trước những rung động của một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn dành cho sông Hương một bài kí trang trọng. Cả bài kí dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Và cuộc tìm kiếm, lí giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tìm kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lí mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó. [Trích dẫn đề]. Mở bài 4: “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì cất lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông suôi” (Đất nước – Nguyễn Khoa Điểm) Đất nước Việt Nam có trăm núi nghìn sông diễm lệ. Mỗi con sông chảy qua một vùng châu thổ bao giờ cũng tạo nên một bản sắc văn hóa riêng. Sông chảy vào tâm hồn nhân dân như biểu tượng của sự đắp bồi, xây dựng, biểu tượng của cuộc sống cần cù, bất diệt. Đúng như Nguyễn Khoa Điềm từng tâm sự: “Sông mang ý nghĩa của sự sống, của tình yêu và khát vọng”. Đoạn thơ gợi cho ta hình ảnh của hát, điệu hò. Đó là dòng Sông Đà hùng vĩ, mênh mang nhưng cũng rất đỗi trữ tình trong tùy bút của Nguyễn Tuân, là dòng sông Hồng “đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi đau đáu trong từng dòng hồi ức, là dòng sông kháng chiến trong những trang tiểu thuyết của tác giả “Những đứa con trong gia đình”, Phủ Ngọc Tường, người gắn bó máu thịt với xứ Huế mộng mơ, cổ kính, sông Hương đã trở thành một biểu tượng về cái đẹp vĩnh hằng, tha thiết. Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” chính là tiếng lòng thổn thức của người nghệ sĩ xứ Huế dành cho dòng sông thơ mộng này. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết bút kí, nét đặc sắc trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều với vốn kiến thức tổng hợp từ nhiều lĩnh vực và một lối hành văn hướng nội mê đắm và tài hoa. NGỮ VĂN | 10
  11. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bút kí được nhà văn sáng tác năm 1981 tại Huế, và được in trong tập bút kí xuất bản năm 1986. Với một trái tim say đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tàng tri thức phong phú, đa dạng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kiến tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa sang, vừa lấp lánh trí tuệ, vừa chứa chan ân tình. Nhà văn đã thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng và say mê tình cảm đằm thắm mà da diết, đậm đà dành cho mảnh đất sông Hương xứ Huế. Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta đọc được những trang viết về sông Hương với tình cảm da diết, sâu nặng với mảnh đất cố đô đầy lưu luyến. Hình ảnh sông Hương từ cội nguồn tựa như một “cuộc thám hiểm” thực sự mở ra trên trang giấy. Bài 7: Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài Mở bài 1: Có ai đó đã từng nhận xét: suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của văn học là góp phần nhân đạo hoá con người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó. Vì vậy tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm như thế. Mở bài 2: Nếu ai đã từng đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hoà chìm trong sương, đến với những phong cảnh rừng núi hùng vĩ, trữ tình, đến với cuộc sống vui tươi của những đứa con núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói nghèo, cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Và Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua [dẫn đề] trong “Vợ chồng A Phủ”. Mở bài 3: Một tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Bởi Nam Cao đã từng nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng thét khổ đau kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm được kết tinh bước phát triển của chặng đường văn học này, trong đó xuất sắc nhất vẫn phải kể đến “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mở bài 4: Nhà văn Pautopxki từng quan niệm: “Sứ mệnh của nhà văn chân chính là người dẫn đến xứ sở của cái đẹp”. Đến với những trang hoa của nhà văn Tô Hoài, ta không chỉ thấy bức tranh thiên nhiên Tây Bắc rộng lớn, mà mảnh đất ấy còn lấp lánh vẻ đẹp của những con người vùng cao Tây Bắc không cam chịu kiếp sống nô lệ, không cam chịu sự chà đạp của bọn chúa đất phong kiến mà vẫn vươn lên để tìm tự do, hạnh phúc cho riêng mình. Vẻ đẹp tâm hồn [Dẫn đề] trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Mở bài 5: Có những sở thích nhất thời, song có những sở thích đổi đời không thay đổi, có những nỗi đau thoáng qua và cũng có những vết thương hằn theo năm tháng. Nếu giở những trang văn đẫm lệ của Kiều, ta sẽ khóc, nếu Chí Phèo chết, ta khóc thương thì khi đọc “Vợ chồng A Phủ” ta cũng cho phép mình rung lên theo tiếng lòng thổn thức của Mị - một cô gái trẻ phải chôn vùi tuổi thanh xuân của mình trong nhà thống lý Pá Tra. Đọc tác phẩm, chúng ta có thể cảm thông đó vừa là một bản cáo trạng, vừa là một khúc tình ca. Tô Hoài đã khắc hoạ chân NGỮ VĂN | 11
  12. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 thật số phận đau khổ, tủi nhục của người dân, thể hiện tấm lòng thương cảm thiết tha dành cho những người có số phận tủi nhục dưới ách thống trị, nhất là Mị. [Dẫn đề]. Mở bài 6: “Đất nước Tây Bắc và người Tây Bắc đã để thương để nhớ cho tôi nhiều. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dững cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi” (Tô Hoài). Sau chuyến thâm nhập thực tế đến với miền Tây Bắc xa xôi của tổ quốc. Tại đây, nhà văn đã chứng kiến bao sự bất công, những kiếp đời nô lệ bị chà đạp về thể xác và tinh thần. Với mong muốn tìm ra sự thật và khao khát cho sự đấu tranh của nhân dân đã thôi thúc Tô Hoài chắp bút viết lên tập truyện Tây Bắc mà linh hồn là “Vợ chồng A Phủ” [Trích đề]. Mở bài 7: Nhà văn Phan Anh Dũng nói về Tô Hoài rằng: “Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành”. Quả đúng như vậy, Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết nhiều thể loại và thể loại nào cũng gặt hái được những thành công rực rỡ. Đặc biệt là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, bởi ông rất am hiểu về phong tục rtaapj quán cũng như văn hoá nhiều vùng miền khác nhau. Tô Hoài luôn có những cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sự hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần của người đọc nhiều thế hệ (Yêu cầu đề) Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Nhắc đến nhà văn Tây Bắc – cái tên Tô Hoài như bao trọn tâm trí người đọc – ông là nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. Theo ông “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Bức tranh đời sống trong văn Tô Hoài là những trang văn hấp dẫn người đọc bằng vốn kiến thức sâu rộng về cuộc sống và con người Tây Bắc đã trở thành mảng sáng tác chính. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập truyện “Truyện Tây Bắc” (1953). Tô Hoài khắc hoạ chân thật số phận đau khổ, tủi nhục của người dân lao động miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc. Tô Hoài đã cùng ăn cùng ở với người dân tám tháng, sống với đồng bào dân tộc thiểu số từ du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng để thấu hiểu những cơ cực và vẻ đẹp của những người dân lao động nghèo nơi đây dưới ách áp bức của thực dân và phong kiến. Bài 8: Vợ nhặt – Kim Lân Mở bài 1: Tôi yêu những trang văn của cây bút mang tên Kim Lân, không phải vì nó bay bổng hay lãng mạn. Mà ở đó tôi như được đắm chìm vào thế giới của những vùng nông thôn bình yên, được thả hồn theo những cánh diều ven đe, được theo sau đàn trâu đi tắm mát, quan trọng hơn là được sống trong tình cảm trọn vẹn của những người nông dân chân quê, thật thà, chất phác, đôn hậu, nghèo khổ nhưng vẫn luôn chan chứa nghĩa tình. Và nhắc đến hai chữ “tình người” tôi lại nhớ đến truyện ngắn Vợ nhặt, khi ông viết về nạn đói kinh hoàng năm 1945 để ca ngợi sức sống cũng như niềm tin của con người Việt Nam. Ở đó, đọng lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng nhất có lẽ là nhân vật [Trích dẫn đề]. NGỮ VĂN | 12
  13. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 Mở bài 2: Nếu Nguyễn Công Hoan quan niệm: “đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh”, Thạch Lam cho rằng: “đời là miếng vải có lỗ thủng, có những vết ố nhưng vẫn nguyên vẹn”, còn Nam Cao “đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại” thì tới Kim Lân trong Vợ nhặt, ta sẽ có thêm một định nghĩa nói về đời, “đời là những kiếp người bị cái đói xô đẩy đến bước đường cùng nhưng vẫn lấp lánh tình người, vẫn loé lên niềm tin về sự sống”. Có thể nói với Vợ nhặt, Kim Lân xứng đáng là nhà văn “nhân đạo từ trong cốt tuỷ” khi chỉ với một thiên truyện ngắn, ông không chỉ lột tả được cuộc sống nghèo đói của người nông dân trong nạn đói 1945 mà còn thể hiện được [Trích dẫn đề]. Mở bài 3: Khép lại những trang văn đầy đau khổ viết về số phận nhân vật Mị, về những kiếp người lao động ở miền núi Tây Bắc những năm 60, trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Không hiểu sao, lòng tôi thấy nặng trĩu những cảm xúc xót thương về một kiếp người. Nhưng cảm xúc ấy lại càng trào dâng hơn khi một lần nữa đọc truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Nạn đói năm 1945 sao dã man đến vậy, kiếp người dân lầm than sao cay đắng đến thế khi đâu đâu những thây người chết, người chết nằm “ngổn ngang khắp lều chợ” Nhưng có lẽ, lòng người ta không chết khi vẫn có cái gọi là “tình người giữa nạn đói kinh khủng” năm ấy. Và để minh chứng cho điều này một cách sâu sắc nhất, chúng ta nhớ đến [Dẫn đề]. Mở bài 4: Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỉ trên đất nước ta thế nhưng nó vẫn luôn hiện hữu như một cơn ác mộng với những mất mát đau thương không một từ ngữ nào có thể diễn tả được. Nhờ có văn học, những con người Việt Nam sinh ra trong thời bình đã phần nào cảm nhận được những gì dân tộc đã phải trải qua để đánh đổi nền độc lập, tự do. Trong số những nhà văn hiện thực, Kim Lân là một cây truyện ngắn với các tác phẩm giá trị, trong đó có Vợ nhặt. [Dẫn đề]. Mở bài 5: Nhà văn Thạch Lam từng viết “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức”. Đúng vậy, đã là một nhà văn, khi cầm bút viết nên tác phẩm, ngoài khả năng dùng ngòi bút của mình biến chất liệu đời sống thành những câu văn thì có lẽ, điều tạo nên sự khác biệt giữa những người nghệ sĩ chính là “đôi mắt” nhìn đời của họ. Như “người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”, đằng sau mỗi mảnh đất hiện thực mà nhà văn tái hiện, ta luôn nhìn thấy trong đó những điều mới lạ, những phát hiện tinh tế và cả những triết lí nhân sinh sâu sắc. Xã hội bao gồm nhiều mảnh ghép nhỏ mà mỗi nhà văn là người phản ánh từng khía cạnh ấy trong cuộc sống. Nếu ta từng bất cười với “cảnh đám ma có tất cả nhưng chẳng có gì” trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng thì khi nhắc đến “Vợ nhặt” ta thực sự xúc động [Dẫn đề]. Mở bài 6: Nhà văn Nguyễn Khải nhận xét: " Là học trò của cụ Nguyễn Tuân, tôi vẫn không tin Nguyễn Tuân viết " Chữ người tử tù" cũng như Kim Lân viết "Làng" và "Vợ nhặt". Đó không phải là người viết mà là thần viết. Thần mượn tay người để viết nên những trang bất hủ". Xét riêng truyện ngắn "Vợ nhặt", Kim Lân quả xứng với lời khen đó. Thiên truyện về cái đói, cái chết mà làm lộ ra sự sống, lộ ra chất người kì diệu. Tư tưởng nhân văn sâu sắc đó NGỮ VĂN | 13
  14. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 không phải là truyện ngắn ồn ào mà được diễn đạt thấm thía qua nghệ thuật văn xuôi đặc sắc đã đưa Kim Lân vào hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học hiện đại. Đọc "Vợ nhặt", không ai không bị hấp dẫn bởi một tình huống hết sức độc đáo và bi hài mà cũng đậm chất nhân văn, thấm đẫm tình người. [Dẫn đề]. Mở bài 7: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Nhắc đến nhà văn Kim Lân, ta sao quên được một nhà văn được xem là “đứa con đẻ của đồng ruộng”. Ông là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ. Ông viết không nhiều nhưng để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Cuộc sống và con người ở làng quê Đồng bằng Bắc Bộ là đề tài chính trong sáng tác của ông, cũng là đề tài ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân, lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945 để làm phông nền. Cái đói đã cướp đi sinh mạnh của hơn hai triệu đồng bào người Việt Nam nhưng đồng thời giữa cái tối tăm tiêu điều ấy lại loé lên vẻ đẹp tâm hồn của con người và khát vọng hạnh phúc trong thời khắc khốn khổ nhất. Bài 9: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành Mở bài 1: Rừng xà nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Tái hiện chân thực cuộc chiến đâu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mỹ, nhà văn tập trung miêu tả hình thành của một thê hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông, và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú. Mở bài 2: Mỗi nhà văn dường như đều gắn bó với một vùng quê nhất định . Nếu như Nguyên Hồng tha thiết với Hải Phòng –thành phố hoa phượng đỏ, Nam Cao gắn bó cả cuộc đời với làng Vũ Đại qua những trang văn sắc lạnh mà thấm đẫm nước mắt, thì Nguyễn Trung Thành dường như có một niềm yêu thiết tha và mối giao cảm kì lạ với Tây Nguyên. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chính mảnh đất và con người nơi đây là nguồn cảm hứng lớn lao cho sáng tác của ông, làm nên tác phẩm “Rừng xà nu”- một bản anh hùng ca thời hiện đại. Đến với “Rừng xà nu”, ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ, để lại ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Mở bài 3: “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa NGỮ VĂN | 14
  15. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 Rũ bùn đứng dậy sáng loà” Đã có những tháng ngày như thế, những tháng ngày đất nước hừng hực sục sôi trong khí thế của cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Mảnh đất Tây Nguyên đã đi vào văn chương như một huyền thoại về những con người “đẹp từ như trong chân lí sinh ra”, những con người mang vẻ đẹp sức sống mãnh liệt như những cây xã nu cao lớn chống lại kẻ thù để bảo vệ quê hương đất nước. Nguyễn Trung Thành đã tái hiện xuất sắc vẻ đẹp đậm tính sử thi ấy thông qua truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Rừng xã nu đã đem lại ngỡ ngàng cho người đọc khi một truyện ngắn mà phản ánh được cả một cuộc đấu tranh chống Mỹ nguỵ của người dân Tây Nguyên, vì vậy tính sử thi càng được tô đậm rõ nét hơn thông qua cách xây dựng nhân vật, hình tượng cây xà nu và ngôn ngữ tác phẩm. Mở bài 4: Tây Nguyên là mảnh đất nắng gió bao la, nơi đại ngàn hoang sơ hùng vĩ. Mảnh đất sản sinh văn hóa cồng chiêng và bao pho sử thi đồ sộ như Đam Săn, Xinh Nhã, Xinh Bia Mảnh đất ấy cũng từng kinh qua bao cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và để lại bao dấu ấn đẹp đẽ qua bao trang văn, trang thơ. Trong số những sáng tác về mảnh đất và con người nơi đây phải kể đến “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm ra đời vào mùa hè đỏ lửa năm 1965 và nhanh chóng trở thành một khúc hùng ca bi tráng, thiêng liêng – một “Bản hịch thời đánh Mỹ”. Người đã dệt nên bản anh hùng ca ấy chính là hình tượng nhân vật Tnú – con người tiêu biểu cho chân lý cách mạng ngời sáng mà cụ Mết đã truyền dạy “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Mở bài 5: Nguyễn Trung Thành là nhà văn đã sống và gắn bó với chiến trường Tây Nguyên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính mảnh đất và tình người nơi đây đã phả hồn vào những trang viết của nhà văn và để lại dấu ấn sâu đậm qua: “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu”. Trong số đó, “Rừng xà nu” được xem là một khúc hùng ca – một “Bản hịch thời đánh Mỹ”. Tác phẩm có kết cấu độc đáo – truyện lồng truyện, truyện của cuộc đời những cánh rừng xà nu quyện hòa vào cuộc đời của nhân vật chính – Tnú. Tất cả tạo nên một đội ngũ trùng điệp, bất tận về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn của dân tộc. Ấn tượng sâu đậm nhất, khắc sâu nhất trong tác phẩm này chính là hình tượng nhân vật Tnú – một nhân vật mang tầm vóc sử thi của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên anh hùng. Bài 10: Chiếc thuyền ngoài xa Mở bài 1: “Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh” (Thời gian – Văn Cao) Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp đẽ sẽ “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Cũng như dù thời gian có trôi qua nhưng những giá trị của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu vẫn vẹn nguyên và tỏa sáng. Đến với tác phẩm này bên cạnh những nhân vật Phùng, Đẩu, lão đàn ông , chúng ta hẳn là không thể quên được nhân vật người đàn bà hàng chài. Đây chính là hình tượng tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật NGỮ VĂN | 15
  16. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 của nhà văn Nguyễn Minh Châu về cách nhìn cuộc sống và con người, để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. Mở bài 2: Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết kiếm tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm đậm chất sử thi như cửa sông, miền cháy, dấu chân người lính. Thế nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi tiên phong trong cuộc đổi mới văn học. Chiếc thuyền ngoài xa được in năm 1983 là một bước tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá tầng chìm, vào chiều sâu cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu. Mở bài 3: Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ cách nhìn về cuộc đời của mình qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa.Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ cách nhìn về cuộc đời của mình qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật và xây dựng hình tượng trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của ông là một ví dụ. Và có lẽ hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy. Mở bài 4: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, đậm tính chiến đấu và thiên hướng trữ tình lãng mạn, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự cùng những vấn đề triết lí nhân sinh. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng, qua đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về vấn đề nghệ thuật và cuộc sống. Những phát hiện của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng làm nổi bật tư tưởng của nhà văn. Mở bài 5: Con người từ khi tồn tại và trải qua biết bao lịch sử thăng trầm đã, đang và sẽ vẫn là thực thể hoàn mĩ nhất và cũng phức tạp nhất. Âu đó cũng là quy luật cái đẹp là cái có sức “thôi miên” con người ta mãi mãi. Bởi lẽ đó, sẽ không có gì là đáng ngạc nhiên khi con người luôn hiện diện trong mọi bề mặt của không gian cuộc sống ở vị trí trung tâm, và cũng sẽ là dễ hiểu khi ai đó cho rằng: Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo. Đến với “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, ta sẽ tìm thấy “sự tôn vinh” đó, không hiện hình ngay mà “mơ hồ, lòe nhòe” sau màn sương hồng, ẩn hiện Mở bài 6: “Đối với người nghệ sĩ thì sáng tạo bắt đầu từ cái nhìn”. Câu nói ấy cũng là tâm niệm chung cho tất cả các nhà văn chân chính, những con người trong hành trình sáng tạo văn chương luôn khao hát tìm đến Chân – Thiện – Mỹ. Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn như thế. Ông là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi NGỮ VĂN | 16
  17. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 mới. Nguyễn Minh Châu đã bắt đầu bằng cái nhìn sâu thẳm để phát hiện ra vẻ đẹp của những con người bình thường trong cuộc sống còn nhiều đau khổ, ngang trái, từ đó sáng tạo những tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo và thể hiện những chiêm nghiệm của bản thân về cuộc đời và nghệ thuật. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác tiêu biểu [Trích đề]. Mở bài 7: Nếu hoạ sĩ vẽ nên những nét “truyền thần” hút hồn người xem, người cầm ca hát vang lên những nốt nhạc làm say lòng người; hay những bậc nghệ nhân khéo tay làm nên những món đồ thủ mĩ nghệ tinh xảo thì nhà văn lại kiến tạo nên những giá trị đích thực xuất phát từ những mảnh đất cuộc đời. Trên con đường lao động sáng tạo, người nghệ sĩ chân chính luôn cố gắng “đào xới” hiện thực để tìm ra “chất vàng” gửi gắm trong đứa con tinh thần của mình. Và được coi là “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu luôn ý thức rõ thiên chức của người cầm bút chân chính. Điều đó được thể hiện qua nhân vật trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Mở bài 8: Một nhà văn đã từng nói: “Có những hình ảnh thoạt nhìn thì đẹp, thậm chí là rất đẹp, nhưng nếu nhìn kĩ bên trong, đi sâu vào bản chất của nó thì hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống nhiều khi thường “đánh lừa” ta như thế. Phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó. Và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy! Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, là “vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới” - “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, đời tư mang đậm chất triết lí nhân sinh trong giai đoạn văn học mới, khác xa cảm hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn (yêu cầu đề). Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm Chiến tranh kết thúc đặt điểm nhìn của nhà văn vào một khía cạnh khác. Các sáng tác của họ không còn là những bom đạn, hi sinh trong thời chiến mà trở về với thời bình, con người phải đối mặt với muôn vàn câu chuyện thế sự. Đứng trước nhu cầu đó, Nguyễn Minh Châu đã lao động miệt mài để tìm nên chất liệu đặc biệt cho sáng tác của mình. Điều đáng nói hơn, ông luôn chủ động đi sâu vào tận đời sống xã hội, khai thác mọi biến chuyển của đời sống con người đặc biệt là đời sống tâm hồn để nhìn nhận và phản ánh. Mỗi tác phẩm là một câu chuyện, nhiều mảnh đời và muôn vàn những giá trị nhân văn được đề cập. Mọi khám phá đều được nhà văn khắc hoạ lại trong tác phẩm nghệ thuật một cách rất nghệ thuật. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” như một hồi ức được kể dưới cái nhìn của một nghệ sĩ trên con đường lao động sáng tạo và tìm ra được chân lí nghệ thuật. Truyện ngắn lần đầu được in trong tập “Bến quê” sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn. Truyện in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ nhiều góc độ thế sự của nhà văn cùng những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “nghệ thuật và cuộc đời”. Bài 11: Hồn Trương Ba da hàng thịt – Lưu Quang Vũ Mở bài 1: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được hình thành dựa trên một cốt truyện dân gian. Từ hư cấu sáng tạo, ông đã đặt NGỮ VĂN | 17
  18. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 ra nhiều vấn đề mới có ý nghĩa tư tưởng, triết lí nhân văn sâu sắc. Đoạn trích là cuộc đấu tranh giữa thể xác và tâm hồn. Qua nghịch cảnh ấy, người đọc cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ được sự sống đích thực cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách, xứng đáng với con người. Mở bài 2: Nhắc đến Lưu Quang Vũ là nhắc đến một nhà soạn kịch tài hoa, một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Tài năng bao trùm trên các lĩnh vực văn chương nghệ thuật, và trong mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ lại để lại những dấu ấn đặc biệt, để lại những thành tựu trải dài suốt hàng thế kỉ. Trong đó, Lưu Quang Vũ đặc biệt được ghi nhận ở mảng viết kịch và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được xem là một trong những vở kịch thành công nhất của Vũ. Chính vì thế mà nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nói: “Bóng rợp tài năng của Lưu Quang Vũ đã trùm lên che mát cả một vùng sân khấu rộng lớn theo chiều dài đất nước trong một thập niên”. Mở bài 3: Raxun Gamzatop từng nói: "Cái tâm nhờ cái tài mà cháy lên, cái tài nhờ cái tâm mà tỏa sáng." Câu nói này làm ta có những liên tưởng rất tự nhiên về vở kịch" Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ. Tác phẩm này chính là sự kết hợp hài hòa giữa cái "tâm" của một nghệ sĩ chân chính, cái "tài" của một nhà soạn kịch xuất sắc. Chính sự kết hợp ấy đã làm nên ánh sáng của tác phẩm. Ta nhận thấy rằng nguồn ánh sáng diệu kỳ ấy tập trung nhất ở màn kết của vở kịch. Mở bài 4: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới "vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xây đựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hanh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch. Mở bài 5: Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất. Ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian ông xây dựng lên một vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc. NGỮ VĂN | 18
  19. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 TỔNG HỢP NHỮNG KẾT BÀI NÂNG CAO Bài 1: Tây Tiến Kết bài 1: Một thời đại chiến tranh khói lửa, gian nan thách thức, hi sinh xương máu mà vẫn thật oai hùng đã được Quang Dũng dựng lại qua bài thơ Tây Tiến. Đặc biệt nhà thơ đã xây dựng thành công bức tượng đài sừng sững về người lính Tây Tiến bằng những đường nét cụ thể và tiêu biểu từ hình dáng đến tâm hồn. Bức tượng đài ấy sẽ đứng hiên ngang trong lòng những người yêu thơ ca nói riêng và trong lòng người dân Việt Nam nói chung. Kết bài 2: Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ Tây Tiến, từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy. Kết bài 3: Đọc xong những ý thơ mà tôi có cảm giác vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây còn chập chờn, miên man đâu đó. Bằng tình cảm sâu đậm của mình với mảnh đất này, Quang Dũng đã tạo nên mối tơ tình đồng điệu, gắn bó giữa độc giả với nhà thơ, giữa độc giả với thiên nhiên, con người miền Tây trong những năm tháng kháng chiến gian nan. Quả là “ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Bài 2: Việt Bắc Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp với kết cấu xưng hô “ta – mình”, bài thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống con người Việt bắc. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối bài thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại . Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào đê lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng, như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hòa tâm hồn!” Bài 3: Đất Nước Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nướcđã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơidậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng. Bài 4: Sóng Kết bài 1: Bài thơ “Sóng” của nữ hoàng thơ tình – Xuân Quỳnh giống như một câu chuyện cổ tích đời thường về tình yêu. Có lẽ, khi đọc bài thơ này, những trái tim đã từng đau đớn, thất vọng, mất niềm tin trong tình yêu cũng sẽ thêm một lần nữa được thổn thức với những xúc cảm mà NGỮ VĂN | 19
  20. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 nó mang lại. Bởi nó đánh thức, khơi dậy trong ta về nguồn gốc, đạo lí, ân tình của tình yêu khiến mỗi câu thơ, mỗi ý thơ như sợi chỉ đan vào tâm hồn ta bao sợi thương sợi nhớ, se lành bao vết thương dù đã tổn thương. Từ đó soi chiếu vào tình yêu của mình để ta biết trân trọng nhau hơn, đặc biệt là trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi họ đã dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu. Kết bài 2: Sóng – bài thơ thành công trong phương thức biểu hiện cảm xúc của thi sĩ. Kết cấu song trùng, sự tương xứng giữa hai hình tượng Sóng và Em là sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, giàu tính thẩm mĩ của Xuân Quỳnh. Với sự sáng tạo ấy, Xuân Quỳnh đã nói lên một cách nồng thắm mà không kém phần tế nhị những khát khao rạo rực của trái tim yêu. Đó cũng là những khát khao đời thường, dung dị, cao quý. Tiếng nói ấy chân thành, tự nhiên mà sâu sắc được diễn tả qua hình tượng thơ gợi cảm, đa nghĩa. Xuân Quỳnh thực sự là thi sĩ của tình yêu, thi sĩ của những rung động nữ tính trong trái tim. Bài 5: Người lái đò Sông Đà Kết bài 1: Cuộc sống quanh ta luôn vận động với theo vòng quay của đất trời, nhưng suy cho cùng ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi nhưng chính Nguyễn Tuân đã mang đến cho ta một thế giới mới, tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là một nhà văn góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác! Kết bài 2: Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” cùng hình tượng người lái đò tài hoa chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về con người, cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân. Bài 6: Ai đã đặt tên cho dòng sông Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Nó là một dòng sông hung tợn, man dại ở khúc thượng nguồn rồi trở nên mê đắm, thủy chung khi gặp được người tình trong mộng của mình là Huế. Sông Hương không vô tri vô giác mà nó có cảm xúc và có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu quê hương xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một kí giả nặng lòng với Huế: “Dòng sông ai đã đã đặt tên Để người đi nhớ Huê không quên Xa con sông mang bao nỗi nhớ Người ở lại tháng năm đợi chờ.” Bài 7: Vợ chồng A Phủ Kết bài 1: Gấp lại những trang sách mà dư âm về nhân vật Mị, về cô gái Mèo với sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân, về số phận đáng thương của người dân dưới xã hội phong kiến đương thời vẫn còn in đậm trong tâm hồn tôi. Mị hay Vợ chồng A Phủ mãi là những rung động sâu sắc mà Tô Hoài để lại nơi người đọc. Kết bài 2: NGỮ VĂN | 20
  21. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 “Văn học là cuộc đời Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi di tới của văn học”, mỗi người nghệ sĩ lớn đều ý thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và đời sống. Đời sống là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước đi trên từng nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ, ta thấy không chỉ cáo lũ quan lại phong kiến bị lên án tố cáo, Tô Hoài còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất và khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn nguời lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. Đó chính là sự diễn tả hợp lí những nghịch cảnh, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Mị, giúp nhà văn phần nào đạt đến cái gọi là “phép biện chứng tâm hồn”. Cùng với cốt truyện sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện giản dị, “Vợ chồng A Phủ” vẫn giữ nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình qua hàng thập kỉ. Bài 8: Vợ nhặt “Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng, “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy. Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt. Bài 9: Rừng xà nu “Tôi yêu say mê cây xà nu. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạc. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thanh vừa rắn rỏi, mênh mông, tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau.” Trong dụng ý miêu tả của mình, Nguyễn Trung Thành dã lựa chọn những cánh rừng xà nu cạnh con nước lớn và chạy bát ngát đến tận chân trời làm phông nên cho tác phẩm. Để từ đó xuất hiện những người anh hùng và những hành động anh hùng của người Tây Nguyên. Những hành động kiên cường anh dũng của họ mãi được lịch sử ghi nhận và cuộc đời, hành động của họ mãi mĩa trở thành trang sử thi bất hủ của dân tộc. Và trong những đêm huyền thoại với ngọn lửa bùng bùng soi rõ, những khan dử thi anh hùng mãi được hát lên, được ghi nhớ và được kể lại cho muôn đời sau. Và đâu đó, âm vọng trong núi, trong nước, trong cánh rừng và trong tâm trí người Xô Man vẫn còn câu nói trầm trầm đầy uy lực của cụ Mết: “Nhớ lấy, ghi nhớ, Chúng nó cầm súng, mình phải cầm mác”. Bài 10: Chiếc thuyền ngoài xa Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn nMinh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc NGỮ VĂN | 21
  22. MỞ BÀI NÂNG CAO MÔN NGỮ VĂN LỚP 12 biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Bài 11: Hồn Trương Ba da hàng thịt Nhiều thập kỉ trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện, trong khí thế vươn lên của đất nước và dân tộc, sẽ còn tìm thấy nhiều tầng ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thông qua hình tượng hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề tư tưởng thấm đẫm chất nhân văn, không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà có ý nghĩa muôn đời đối với tất cả mọi người. NGỮ VĂN | 22