Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản: Tây tiến

docx 8 trang Hùng Thuận 21/05/2022 10311
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản: Tây tiến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxon_tap_mon_ngu_van_lop_12_van_ban_tay_tien.docx

Nội dung text: Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản: Tây tiến

  1. Mở bài: Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ Nghĩ lại về Pauxtopxki – nhà thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ. Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Vâng! Đúng vậy, có những tác phẩm ngay khi vừa mới ra đời đã bị nhấn chìm giữa những ồn ào, náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, như “bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, nó như “ bất tử”, “trường tồn mãi mãi với thời gian” trở thành “bài ca đi cùng năm tháng”, để lại trong tâm hồn bạn đọc những vang vọng, những dư vị không thể nào phai mờ. Một trong số những bài ca đó phải kể đến “Tây Tiến” của nhà thơ “xứ đoài mây trắng” Quang Dũng. Trong bài thơ có những vần thơ lắng đọng, đặc biệt là đoạn đầu của bài thơ đã tái hiện cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến nơi núi rừng hùng vĩ, hiểm trở không kém phần thơ mộng, trữ tình: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Thân bài: Đoạn giới thiệu về tác giả: Quang Dũng là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ và hào hùng, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn nổi bật với nét “trung hậu, yêu tha thiết quê hương, đất nước mình”. Trong thơ của Quang Dũng có hình ảnh một cái tôi tài hoa, thanh lịch, đậm chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ tinh tế của thiên nhiên con người. Tất cả đều được hội tụ và toả sáng rực rỡ trong bài thơ Tây Tiến - đứa con làm nên tên tuổi của Quang Dũng. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã từng nhận xét về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Đoạn giới thiệu về tác phẩm: Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc, Việt Nam. Địa bàn hoạt động là nơi rừng thiêng nước độc Lam Sơn chướng khí núi cao, vực thẳm. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh, sinh viên Hà Nội giàu lòng yêu nước, phóng khoáng, mang đậm nét hào hoa lãng mạn. Bài thơ “Tây Tiến” được nhà thơ sáng tác vào cuối năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng về lại những tháng ngày khi còn được chiến đấu với binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu khi sáng tác, bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, nhà thơ đổi tên thành “Tây Tiến”, một nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người từng gắn bó sâu đậm với nhà thơ. Đúng như Đỗ Kim Hồi đã từng nhận xét về bài thơ Tây Tiến: “Tây Tiến là đoá hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ ca những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp – Tây Tiến là thứ quả lạ trái mùa, một “lệch chuẩn” tài hoa”. Page | 1
  2. Tây Tiến của Quang Dũng được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ thương về đồng đội thân yêu, về chiến trường miền Tây. Trong muôn vàn cảm xúc nhớ thương ấy, để lại cảm xúc cho người đọc là con đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến qua một vùng rừng núi hùng vĩ, hoang sơ, thơ mộng, trữ tình. Vì thế, mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã cất lên tiếng gọi thân thương: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Mở đầu bài thơ là hình thức câu cảm thán chứa chan chan bao cảm xúc ân tình, nhà thơ đã cất lên tiếng gọi binh đoàn của mình “Tây Tiến ơi” mang vẻ bâng khuâng của hoài niệm. Theo tiếng “ơi” thân thương ấy, tất cả nỗi nhớ núi rừng, nơi thử thách cũng là nơi bao bọc, chở che đoàn quân. Chỉ với câu thơ mở đầu, tác giả đã gợi cho người đọc thấy được địa danh Tây Tiến thân thương của tổ quốc. Đây không chỉ là một địa danh mà còn là một người bạn thân yêu, một người thân ruột thịt của Quang Dũng. Song hành với địa danh Tây Tiến là hình ảnh con sông Mã hiền hoà, trôi chảy theo từng chặng đường hành quân của đời lính, trở thành chứng nhân lịch sử gắn với bao niềm vui cùng đồng đội và núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, là địa bàn hoạt động, nơi các chiến sĩ Tây Tiến sống và chiến đấu. Hai từ “xa rồi” làm cho âm điệu của câu thơ trở nên êm ái, gợi niềm lưu luyến, tiếc nuối, bâng khuânh, xao xuyến. Hơn nữa, điệp từ “Nhớ” được lặp đi lặp lại hai lần trong một câu thơ cộng hưởng với từ láy “chơi vơi” như khắc sâu nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng. Nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ miên man, không định hình mà bâng khuâng, man mác bao trùm cả không gian, thời gian. Nỗi nhớ không đầu không cuối nhưng toát hết được cung bậc của cảm xúc. “Nỗi nhớ” không xác định rõ được, đó là kỉ niệm nào, trong khi đó lại có rất nhiều kỉ niệm hiện lên. Nó hụt hẫng, nó bâng khuâng, nó lại mang đến sự bồn chồn, xao xuyến. Cách viết, cách dùng âm, dùng từ của Quang Dũng mới quay quắt làm sao! Có lẽ, phải đau đáu như vậy mới khiến người ta thương. Nỗi nhớ “chơi vơi” là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ bởi “chơi vơi” thường mang ý nghĩa chỉ không gian tồn tại của sự vật, đi vào trong những vần thơ của Quang Dũng “chơi vơi” bỗng trở thành một không gian của tâm tưởng, không gian của cảm xúc. Có thể nói, hai chữ “chơi vơi” dùng ở đây thật đắt địa, cái tâm trạng ấy ta đã từng bắt gặp trong những câu ca dao: “Ra về nhớ bạn chơi vơi” Hay: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa, như ngồi đống than” Quang Dũng đã lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trưng thêm cho nỗi nhớ “chơi vơi” của mình, thật là một chi tiết đắt giá. Có thể nói, hai câu đầu là sáng màn cho cảm xúc chủ đạo - nỗi nhớ. Theo nỗi nhớ của Quang Dũng, một hành trình Tây Tiến gian khổ, nhọc nhằn, đầy thử thách hiện ra đầu tiên là những địa danh: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Page | 2
  3. Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Những cái tên Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, gợi trong kí ức người đọc về những miền rừng núi hùng vĩ, những bản làng mà sương heo hút, hoang sơ. Thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp thường gọi tên những miền đất của tổ quốc. Đó là thời đại mà các thi nhân có lẽ đã phát hiện ra rằng tình yêu đất nước đơn giản bắt nguồn từ những tên làng, tên núi, tên sông. Những địa danh không còn là tên gọi của tổ quốc mà còn là một phần máu thịt thiêng liêng của tổ quốc. “Thơ là thơ, đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng). Với ý nghĩa đó, Quang Dũng đã dùng lời thơ của mình vẽ nên bức tranh thiên nhiên đầy thử thách, hiểm nguy, dữ dội bằng thứ ngôn ngữ giàu chất tạo hình: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” Mảnh đất Sài Khao khắc nghiệt bởi sương giăng khắp lối, phủ mờ tất cả con đường đi, phủ mờ ngay cả những người đi trước đó chỉ một vài bước. Điều đó đã gợi ra một màn sương vô cùng dày đặc, mịt mùng, không khí đêm hành quân vô cùng giá rét. Đây không phải là lần đầu tiên ta bắt gặp hình ảnh giá rét như thế này mà trước đây trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu từng viết: “Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo” Hay ta cũng đã từng bắt gặp những gian lao, vất vả qua lời thơ của Tố Hữu trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét mi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non” Câu thơ sử dụng cách ngắt nhịp 4/3 quen thuộc trong thơ Đường luật, làm cho phần nghỉ của câu thơ rơi vào động từ “lấp” và kết thúc ở từ “mỏi”, ta như có cảm giác chính sương đã làm cho đoàn quân thêm mỏi, đôi vai các anh bị sương trùng xuống, sương rơi ướt sũng chiếc ba lô như càng nặng hơn. Ngoài sương, thì dốc và đèo là những đặc trưng không thể không nhắc đến khi nói về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Dốc, đèo cao ngút ngàn, hiểm trở: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” Câu thơ miêu tả dốc bảy chữ mà có tới năm thanh trắc “dốc” – “khúc” – “khuỷu” – “dốc” – “thẳm” tạo cảm giác vô cùng hiểm trở, chênh vênh, vô cùng nguy hiểm, gập ghềnh về con đường hành quân. Những con dốc cứ nối tiếp nhau trập trùng, vừa lên cao đã vội xuống dốc. Điệp từ “dốc” được nhắc đi nhắc lại hai lần, cùng cách ngắt Page | 3
  4. nhịp 4/3 quen thuộc trong thơ bảy chữ làm cho trọng âm của câu thơ một lần nữa rơi vào từ “dốc”, khiến ta cứ thấy đèo nối tiếp đèo, dốc nối tiếp dốc, cứ thế lên cao rồi lại xuống thấp. “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Biện pháp nhân hoá trong cụm từ “súng ngửi trời” không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí, tâm hồn người lính. Các anh đứng trước thiên nhiên khắc nghiệt không bị chìm đi, không hề chùn bước. Hai từ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cảm xúc rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có tính chất tinh nghịch của người lính, vừa giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn. Có điều gì gần gũi quen thuộc khiến ta liên tưởng tới câu thơ “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu - một hình ảnh thơ đẹp lạ lùng trong những đêm nằm giữa rừng sâu thăm thẳm. Với động từ “ngửi” này, chí ít người đọc có thể cảm nhận được ba lớp nghĩa: Thứ nhất, đó là một độ cao chóng mặt, trước là mây, sau là trời. Thứ hai, là khi dùng từ “ngửi”, nhà thơ Quang Dũng đã nhân hoá hình ảnh khẩu súng thành người bạn tâm giao với những vui buồn của người lính. Nó không còn là vũ khí chiến đấu vô tri, vô giác, thay vào đó, nó cũng có sự hồn nhiên, tinh nghịch như người lính Tây Tiến vậy. Suy cho cùng những chàng trai thư sinh chốn “Hà thành phồn hoa” cũng mới “qua vòng thơ bé”, vừa tròn mười tám đôi mươi. Thứ ba, cả ba câu thơ cho thấy “ý chí người lính cao hơn đèo”. Không một độ cao nào, không một khó khăn gian khổ nào có thể cản nổi bước chân người anh hùng “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Hình ảnh người lính Tây Tiến vượt qua bao núi cao, dốc thẳm, chinh phục những đỉnh núi cao nhất tưởng chừng con người như đang bồng bềnh giữa biển mây. Thiên nhiên, địa hình khắc nghiệt ấy ta đã từng bắt gặp trong bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh: “Núi cao rồi lạo núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước” Thiên nhiên khắc nghiệt là vậy, nhưng người lính vẫn coi thiên nhiên nơi đây là một người bạn tâm giao. Nhưng đến lúc này đây, thiên nhiên đã không cong là một người bạn tri âm, tri kỉ nữa mà đã trở thành một đối thủ xứng tầm “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Từ “ngàn thước” được lặp đi lặp lại hai lần kết hợp với cặp từ tương phản “lên”, “xuống” cùng với cách ngắt nhịp 4/3 đã khắc hoạ một thiên nhiên miền Tây vô cùng hiểm trở, đem lại cảm giác ghê rợn cho người đọc, đồng thời thử thách ý chí, nghị lực của những chiến sĩ Tây Tiến. Đặc biệt hơn nữa, nhà thơ còn sử dụng từ ngữ ước lệ “ngàn thước”. Điều đó cho thấy độ cao của bầu trời không thể đo được bằng một con số cụ thể mà nó chỉ là một con số mang tính ước lệ, không chính xác. Đây cũng không phải là lần đầu tiên ta bắt gặp một nhà thơ sử dụng con số ước lệ để chỉ độ cao mà trước đó ta đã từng bắt gặp điều đó trong những câu thơ của Lí Bạch: “Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây” Trong thơ cổ của tiên thơ Lí Bạch, ông đã dùng bút pháp phóng đại để khai thác, còn Quang Dũng dùng chính cái thủ pháp ấy để tả độ dốc của núi. Vượt lẻn cái khúc Page | 4
  5. khuỷu ấy, những bàn chân quả cảm đã đạp lên dốc núi mà đi để rồi chạm tới con dốc cao nhất. Tiểu kết: Có thể nói, ở đoạn thơ trên rất giàu giá trị tạo hình bởi Quang Dũng không chỉ là một nhà văn mà còn là một người hoạ sĩ. Đoạn thơ đã sử dụng rất nhiều những từ láy giàu sức tạo hình được đặt liên tiếp nhau: “khúc khuỷu”, “heo hút”, “thăm thẳm”. Dốc “khúc khuỷu” vì đường đi là núi đèo hiểm trở, gập ghềnh vừa lên cao đã vội xuống dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau. Hình ảnh này khiến người đọc liên tưởng đến con đường ra trận của người tránh sĩ năm xưa: “Hình khe thế núi gần xa Đứt thôi lại nối, tháp đà lại cao” (Chinh phụ ngâm) Cái dữ dội, hoang vu bí ẩn của núi rừng Tây Bắc được diễn tả thật ấn tượng trong hai câu thơ tiếp theo: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” gợi thời gian triền miên, bất tận của cuộc hành quân. Biện pháp nhân hoá “thác gầm thét”, “cọp trêu người” đã cụ thể hoá cảnh hoang sơ đến rợn ngợp của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cho thấy sự hồn nhiên, yêu đời rất lính. Từ láy “chiều chiều” gắn với hình ảnh “thác gầm thét” tạo nên sự dữ dội, uy hiếp tinh thần của người chiến sĩ Tây Tiến. Âm thanh của tiếng thác dữ dội ấy đã từng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”: “Thế là nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre lứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét cùng đàn da trâu da cháy bùng bùng”. Từ láy “đêm đêm” gắn với hình ảnh “cọp trêu người”, hình ảnh này gợi cho người đọc sự khiếp sợ về con đường hành quân gian khổ của người lính. Họ không chỉ chiến đấu trong thời tiết vô cùng giá lạnh, mà hàng ngày, hàng đêm tính mạnh của họ còn bị đe doạ bởi vì các con thú dữ sẽ tấn công họ bất cứ lúc nào. Nhưng không vì thế mà người chiến sĩ Tây Tiến chùn bước, họ vẫn bước đi vì màu cờ của tổ quốc, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc. Cách nói “chiều chiều”, “đêm đêm” gợi ra khoảng không gian khắc nghiệt với biết bao hiểm nguy rình rập. Câu thơ khắc hoạ cái bí hiểm thâm sâu của một vùng rừng thiêng nước độc mà ta đã từng bắt gặp trong tứ thơ của Thế Lữ “Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng. Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”. Gian khổ, hi sinh không làm mất đi ý chí, sự can trường của người lính. Tiểu kết: Phải thấy rằng, chính trong những khó khăn, gian khổ ấy, Quang Dũng đã làm nổi bật được ý chí kiên cường, mạnh mẽ, dũng cảm đương đầu với mọi khó khăn, thử thách của các anh chiến sĩ Tây Tiến. Từ những dòng thơ của Quang Dũng ta nghe như có tiếng cười giòn giã rũ sạch mọi mệt nhọc, gian nan, rũ sạch cả bụi trường chinh trên vai người chiến sĩ. Như vậy, có thể thấy, Quang Dũng đã dùng kí ức về đồng đội, về chiến trường để gợi ra khung cảnh thiên nhiên vô cùng gian khổ, hi sinh. Bút pháp ấy của Quang Dũng đã từng được nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Bút pháp Page | 5
  6. của Quang Dũng thích tung hoành trong một biên độ rất rộng, giữa những nét khoẻ khoắn dữ dằn và những nét tinh vi, e ấp”. Nối tiếp cảnh miền Tây hoang sơ, hiểm trở là bức tranh rất đỗi thơ mộng, lãng mạn. Hành quân trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, hương hoa rừng thoảng nhẹ trong bóng đêm mang đến cho người lính những cảm xúc bất ngờ về vẻ đẹp của chốn núi rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Đối lập với khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, dữ dội ấy là một vẻ đẹp lãng mạn và thơ mộng biết bao! Biện pháp nhân hoá “hoa về” khiến cho cảnh vật thiên nhiên trở thành những sinh thể có hồn. Liệu rằng “hoa” ấy có phải là ngàn hoa của núi rừng Tây Bắc hay đó là ánh đuốc bập bùng thắp sáng bước chân của những người lính trong những “đêm hơi” buốt giá? Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn êm ái, nhẹ nhàng như một hơi thở xua tan đi mệt nhọc của những người lính Tây Tiến trên những vùng đất xa xôi, hẻo lánh. Với tâm hồn lãng mạn của một người lính hào hoa thì Quang Dũng còn cảm nhận nét mộng mơ trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc với không gian lãng mạn bởi nét đẹp “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Quang Dũng đã làm cho hình ảnh thơ trở thành ẩn số nhưng ẩn số ấy lại đọng lại sâu sắc trong tâm tư của người đọc. Việc sử dụng từ độc đáo “đêm hơi” cũng cho thấy sự tinh tế trong cách cảm nhận và sự táo bạo trong cách sử dụng ngôn từ. Từ “đêm hơi” đã lột tả vẻ đẹp yên tĩnh và bí ẩn, màn đêm nhẹ bẫng giữa núi rừng Tây Bắc hoang vu. Dường như chỉ với cách sử dụng từ ngữ ấy đã làm hiện lên trước mắt người đọc khung cảnh buổi đêm hành quân giá lạnh với sương trắng quấn lấy đôi chân của người lính. Nếu những câu thơ trên âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn thì câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” âm điệu nhẹ nhàng, thư thái, gợi hình ảnh người lính dừng chân bên núi, phóng tầm mắt ra xa và bất ngờ xuất hiện trong khônh gian mịt mùng mưa rừng thấp thoáng ẩn hiện những ngôi nhà như đang bồng bềnh giữa biển mây. Nhờ chuỗi thanh bằng, giọng thơ nhẹ nhàng. Quang Dũng đã miêu tả được tiếng thở phào của người lính khi vượt qua độ cao của núi đèo. Với sự kết hợp các thanh bằng trắc với nhau đã tạo cho đoạn thơ những âm điệu khác nhau, nói như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”. Bút pháp miêu tả thiên nhiên của Quang Dũng cũng vô cùng độc đáo, tinh tế, mới lạ “Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút tài hoa lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp”. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên từng đánh giá rất cao về bài thơ Tây Tiến: “Tây Tiến giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài càng thấy sáng, càng lấp lánh và hấp dẫn” và yếu tố làm nên ánh sáng và hấp dẫn ấy là từ những dòng thơ của Quang Dũng tập trung khắc hoạ hình ảnh người lính gian khổ, hi sinh: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Chặng đường hành quân nơi núi rừng hiểm trợ thực sự là thử thách đối với các anh lính trẻ. Cách xưng hô thân mật, gần gũi “anh bạn” chan chứa tình thương mến mà Quang Dũng dành cho đồng đội của mình. Từ láy “dãi dầu” gợi người đọc liên Page | 6
  7. tưởng đến cuộc hành quân gian khổ nơi rừng thiêng, nước độc đã vắt kiệt sức người lính. Cách nói giảm, nói tránh “không bước nữa”, “bỏ quên đời” vừa thể hiện niềm tiếc thương đối với đồng đội đã hi sinh vừa thể hiện sự ra đi nhẹ nhàng thanh thản của người lính. Quang Dũng đã rất khéo léo khi sử dụng động từ mạnh “Gục” để phần nào vơi bớt đi cảm giác bi lụy do tang thương nơi chiến trường gây ra. Bên cạnh đó, còn toát lên được tinh thần chiến đấu: người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ như lông hồng”. Người lính ra đi mà tưởng như chìm sâu trong giấc ngủ bởi họ mang theo đôi cánh lí tưởng “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Ngòi bút của Quang Dũng không che dấu hiện thực, ông đã ghi lại sự hi sinh của người lính trong tư thế hiên ngang, hi sinh trên con đường hành quân, tay còn nắm chắc cây súng. Sau chặng đường hành quân, cuối cùng người lính cũng tìm được bến đỗ bình yên, những bản làng thôn xóm đã trở thành cái tên thân thương trong tiềm thức: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Trong hàng nghìn nỗi nhớ, Quang Dũng đặc biệt dành một phần trái tim cho mảnh đất Mai Châu khi bước vào mùa mới. Quên sao được cảm giác ấm áp tình quân dân bên cách bản làng khi dừng chân nghỉ ngơi. Chẳng thế mà giọng thơ êm đềm tha thiết như khúc nhạc tâm tình gợi nhớ thươnhg, như mãi vấn vương một nỗi niềm. Thử hỏi rằng mùi hương nếp xôi có gì mà sao làm bồn chồn, thao thức tâm hồn Quang Dũng đến vậy? Đó là hương vị tích tụ từ sự mặn mòi của đất, từ những giọt mồ hôi mặn chát của con người, từ thần khí thiêng liêng của xứ sở anh hùng. Từ cảm thán “Nhớ ôi” đã bộc lộ cảm xúc sâu lắng về đồng đội. Đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến. Hai câu thơ đậm đà tình quân dân, hương vị bản Mường với “cơm lên khói”, “mùa em thơm nếp xôi” đã để lại dấu ấn không thể nào quên. Hai chữ “mùa em” là sáng tạo độc đáo của Quang Dũng với nét hóm hỉnh, chân tình của người lính. Hương nếp xôi hay hương vị của tình người cứu vương vấn mãi bước chân hành quân của người lính. Sau này Chế Lan Viên trong bài “Tiếng hát con tàu” cũng viết: “Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn nhớ toả mùi hương” Đánh giá nghệ thuật: Mười bốn dòng thơ đầu, tựa như những thước phim tư liệu nhưng đầy giá trị nghệ thuật về cuộc sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Khi miêu tả thiên nhiên Tây Bắc và những người đồng đội của mình, nhà thơ đã vận dụng khéo léo cả bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn. Với thủ pháp điện ảnh kết hợp nhiều biện pháp tu từ độc đáo, giọng thơ linh hoạt, Quang Dũng đã nhớ một nhà quay phim tài hoa khi lại chặng đường hành quân của người lính. Pautovxky từng thốt lên: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sạn tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và toả hương”. Bằng phong thái hào hoa lãng mạn của một người nghệ sĩ và một người chiến sĩ từng chiến đấu với binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã thể hiện phong cách sáng Page | 7
  8. tác nổi bật trong nền thơ ca hiện đại như quan niệm thơ của Sóng Hồng: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Kết bài: Khép lại những dòng thơ tràn đầy cảm xúc, niềm yêu thương của bài thơ Tây Tiến, chúng ta cảm thấy vô cùng kính nể và tự hào về thế hệ cha anh đã hi sinh và mang lại độc lập hòa bình cho dân tộc. Quang Dũng đã giúp người đọc chiêm ngưỡng rõ nét vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoành tráng, trong đó nổi bật lên người chiến sĩ can trường và lạc quan yêu đời. Qua đoạn thơ giúp cho chúng ta thêm yêu quý tổ quốc hơn, hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ của các anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp. “Tây Tiến” không chỉ là một thi phẩm mà nó còn là một bức họa chân thực về lịch sử đã xông pha chiến đấu, quên mình vì nền hòa bình của dân tộc. Mỗi lần đọc và cảm nhận những vần thơ Tây Tiến chúng ta lại nhớ đến tâm hồn cao đẹp của những người chiến sĩ, nghệ sĩ tiêu biểu của lịch sử, văn học dân tộc bởi “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm” (Voltaire). Khi khép lại những trang thơ hào hùng nhưng dư âm của nó có lẽ vẫn còn vấn vương mãi. Ta nhớ đến những câu thơ của Chế Lan Viên: “Ơi kháng chiến mười năm như ngọn lửa Mười năm sau còn đủ sức soi đường” Ngọn lửa thắp sáng ấy không chỉ trong thơ ông, mà còn thắp lên từ những câu thơ Tây Tiến, hòa vào bản trường ca của kháng chiến. Page | 8