Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 9 - Môn: Văn

doc 6 trang hoaithuong97 6660
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 9 - Môn: Văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_thi_chon_hoc_sinh_gioi_lop_9_mon_van.doc

Nội dung text: Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 9 - Môn: Văn

  1. Phòng GD & ĐT Kế Sách Trường THCS Thới An Hội ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 NĂM HỌC: 2019 - 2020 Môn: Ngữ văn Thời gian làm bài: 150 phút ( không kể thời gian phát đề) Câu 1: (4 điểm) Vận dụng kiến thức đã học về từ láy để cảm nhận được cái hay của việc dùng từ trong những câu thơ sau: “Nao nao dòng nước uốn quanh, Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đường, Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. ( Trích Truyện kiều - Nguyễn Du) Câu 2: (4 điểm) Viết văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) về chủ đề quê hương. Câu 3: (12 điểm) Nêu cảm nhận của em về "Ánh trăng" của nhà thơ Nguyễn Duy. Thí sinh không được sử dụng tài liệu, giám thị không giải thích gì thêm === HẾT=== 1
  2. Phòng GD & ĐT Kế Sách Trường THCS Thới An Hội ĐÁP ÁN ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 NĂM HỌC: 2019 - 2020 Môn: Ngữ văn Thời gian làm bài: 150 phút I. HƯỚNG DẪN CHUNG: - Giám khảo cần nắm vững các yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. - Do yêu cầu đặc trưng bộ môn, giám khảo cần linh hoạt, chủ động trong việc vận dụng đáp án và thang điểm, khuyến khích những bài viết giàu cảm xúc và sáng tạo. - Việc chi tiết hóa điểm số (nếu có) phải đảm bảo không sai lệch với tổng điểm của mỗi ý và được thống nhất trong Hội đồng chấm thi. - Điểm bài thi là điểm cộng của tất cả các câu và chỉ làm tròn số đến 0.25 điểm. II. ĐÁP ÁN VÀ THANG ĐIỂM: Câu Nội dung Điểm Vận dụng kiến thức đã học về từ láy để nêu cảm nhận được cái hay của 4.0 việc dùng từ trong những câu thơ sau: “Nao nao dòng nước uốn quanh, Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đường, Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. - Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng liên tiếp hàng loạt các từ láy: “nao 1.0 nao”; “nho nhỏ”; “rầu rầu”; “sè sè”. Các từ láy thể hiện việc dùng từ của Thi nhân vừa chính xác, tinh tế, vừa có tác dụng gợi nhiều cảm xúc 1 trong người đọc. Cụ thể: - Hai từ láy: “nao nao”; “nho nhỏ” gợi tả được cảnh sắc mùa xuân lúc 1.5 chị em Thúy Kiều du xuân trở về. Cảnh vẫn mang nét thanh tao, trong trẻo của mùa xuân rất êm dịu; một bức tranh thật tĩnh lặng nhuốm đầy tâm trạng. Từ “nao nao” gợi tả cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh “phong tư tài mạo tót vời” Kim Trọng. - Hai từ “sè sè”; “rầu rầu”(dầu dầu) gợi tả một nấm mồ quá nhỏ bé, lẻ loi, đơn độc, lạc lõng giữa ngày lễ “tảo mộ”; hai từ láy đã nhuốm màu 1.5 sắc u ám lên cảnh vật * Lưu ý: Đây là dạng bài nghị luận xã hội (về một vấn đề tư tưởng, đạo lí) với hình thức khá “mở”, tạo điều kiện cho HS có thể trình bày ý kiến, cảm 2
  3. nhận của mình xoay quanh chủ đề quê hương ( như vai trò của quê hương đối với đời sống con người, tình yêu, sự gắn bó đối với quê 4.0 hương ). Tuy vậy, HS cần đáp ứng được hai yêu cầu chính sau đây: * Về hình thức: Trình bày bài viết đúng với yêu cầu của đề: văn bản nghị luận có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết luận), và không quá một trang giấy thi. * Về nội dung: HS có thể diễn đạt theo nhiều cách, song cần đảm bảo được một số ý chính sau: 2 - Giải thích khái niệm quê hương: có thể hiểu khái quát là nơi ta 1.0 sinh ra, lớn lên, có gia đình, kỉ niệm thời thơ ấu - Vị trí, vai trò của quê hương trong đời sống của mỗi con người: 1.5 + Mỗi con người đều gắn bó với quê hương, mang bản sắc, truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương. Chính vì thế, tình cảm dành cho quê hương ở mỗi con người là tình cảm có tính chất tự nhiên, sâu nặng. + Quê hương luôn bồi đắp cho con người những giá trị tinh thần cao quí (tình làng nghĩa xóm, tình cảm quê hương, gia đình sâu nặng ). + Quê hương luôn là điểm tựa vững vàng cho con người trong mọi hoàn cảnh, là nguồn cổ vũ, động viên, là đích hướng về của con người. (Lưu ý: HS lấy dẫn chứng trong đời sống, trong văn học để chứng minh) - Bàn bạc mở rộng: + Phê phán một số người không coi trọng quê hương, không có ý thức 0.5 xây dựng quê hương, thậm chí quay lưng, phản bội quê hương, xứ xở. + Tình yêu quê hương cũng đồng nhất với tình yêu đất nước, Tổ quốc. - Phương hướng, liên hệ: + Xây đắp, bảo vệ quê hương, phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mổi con người. 1.0 + Là HS, ngay từ bây giờ phải tu dưỡng, tích lũy kiến thức để sau này xây dựng, bảo vệ quê hương. 3 Thí sinh có thể có nhiều cách cảm nhận và trình bày khác nhưng 12.0 bài viết cần đảm bảo các ý sau: MB Trăng - hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. 1.0 Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương; “Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” Chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. 2.0 Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. Những sáng tác thơ của TB Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. 3
  4. Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh: “Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ” Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất, lưu giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả. Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’. Trăng cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình 1.5 dị. Vầng trăng đó, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được: “Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ: 2.0 “Từ hồi về thành phố quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường” Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”; quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể nào quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen, không biết Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Chính trong những khúc quanh co 2.5 ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. 4
  5. “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng”. Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người. Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người. “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc 2.0 đủ cho ta giật mình” Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri “Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời 1.0 nhắc nhở đối với mỗi người phải biết: “Uống nước nhớ nguồn”. Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. KB Bài thơ không chỉ hay về nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh, sâu sắc trong lòng người đọc. 5
  6. *Cách tính điểm: - Điểm từ 10 đến 12: Bài viết thể hiện hoàn chỉnh nội dung yêu cầu, văn viết có cảm xúc, trình bày rõ ràng trong sáng . - Điểm từ 6,9 đến 9,9: Nội dung khá hoàn chỉnh, diễn đạt lưu loát lời văn có cảm xúc. - Điểm từ 4,0 đến 6,8: Nội dung còn thiếu một số chỗ nhưng về cơ bản đã nêu được đầy đủ theo yêu cầu, trình bày còn sai chính tả nhưng không đáng kể. - Các trường hợp còn lại giáo viên cần chấm theo yêu cầu của đề bài và thực tế học sinh trình bày trong bài làm của mình. Trên đây chỉ là những định hướng, trong quá trình chấm bài, giám khảo cần linh hoạt vận dụng hướng dẫn chấm để định điểm bài làm học sinh sao cho chính xác, hợp lý; cần trân trọng những bài viết có nhiều ý tưởng, giàu chất văn và sáng tạo. Điểm toàn bài lẻ đến 0,25 điểm. 6