Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động nhóm hiệu quả

docx 12 trang hoaithuong97 6940
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động nhóm hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_hoat_dong_nhom_hieu_qua.docx

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động nhóm hiệu quả

  1. SKKN Hoạt động nhĩm hiệu quả PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay chú trọng đến các phương pháp lấy học sinh làm trung tâm. Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp học tập có hiệu qủa trong việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Phương pháp hoạt động nhóm còn gọi là phương pháp Semi na. Đây cũng là một trong những hình thức dạy học phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giúp học sinh có cơ hội bàn bạc, trao đổi, đóng góp ý kiến của mình vào nội dung bài học. Khi học theo nhóm học sinh sẽ được thảo luận theo từng vấn đề của bài học, đó là cơ hội cho mọi học sinh tham gia hoạt động học tập, cơ hội cho các em học hỏi lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau về cách tìm kiếm những giải pháp để giải quyết những tình huống trong bài học, ngoài ra khi học theo nhóm học sinh còn có thể cùng nhau đạt được những điều mà các em không làm được một mình, cần phải bằng cách cùng mọi người trong nhóm đóng góp một phần hiểu biết của mình rồi cả nhóm tập hợp thành một cách giải quyết tốt nhất mà giáo viên đã phân công. Qua đó tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh được phát huy đến cao độ. Hoạt động nhóm còn rèn cho học sinh thói quen làm việc tập thể, tính đoàn kết, làm cho những học sinh nhút nhát ngày càng mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong phát biểu, trong xây dựng bài, trong sinh hoạt cộng đồng, trong đời sống làm cho các em yêu thích môn học, thích sự khám phá và có động cơ học tập đúng đắn, kiến thức của các em sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, các em sẽ dễ nhớ, nhớ lâu, kiến thức của các em trở nên sâu sắc bền vững. Thảo luận nhóm còn giúp học sinh mở rộng, đào sâu thêm những vấn đề học tập trên cơ sở nhìn nhận một cách có suy nghĩ, phân tích có lí lẽ, phát triển được tư duy khoa học, giúp học sinh phát triển các kĩ năng nói, giao tiếp, tranh luận, bồi dưỡng các phương pháp nghiên cứu một cách vừa sức như phương pháp tìm đọc tài liệu tham khảo, phương pháp quan sát, ghi chép , thảo luận nhóm còn tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sin, giúp giáo viên nắm bắt tình hình học tập của học sinh một cách nhanh nhất.
  2. Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi ngành giáo dục tiến hành đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Đã có nhiều nhà khoa học, học giả, nhà giáo đề cập nhiều về phương pháp hoạt động nhóm. Nhưng nhìn chung những công trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau, mang tính chất chung dùng trong nhà trường với các cấp học khác nhau. Mỗi địa phương mỗi vùng, miền, từng trường THCS tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh của mình để đưa ra các hình thức, các biện pháp hoạt động nhóm cho phù hợp thì mới mang lại hiệu quả cao khi sử dụng phương pháp này. Hoạt động thảo luận nhóm và hoạt động làm việc theo nhóm là hai hình thức dạy học hoàn toàn khác nhau. Làm việc theo nhóm là những câu hỏi lớn hơn dùng cho các bài thực hành hoặc các bài tổng kết. Còn thảo luận nhóm là thảo luận những vấn đề nhỏ trong từng bài dạy, nhưng đó là những vấn đề khó yêu cầu cần phải có sự hợp tác, trao đổi giữa các học sinh trong nhóm để đưa ra câu trả lời. Trong đề tài này chúng tôi chỉ đề cập đến một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong phương pháp thảo luận nhóm. Qua thực tế đi dự giờ học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp tôi thấy các giáo viên tiến hành các hoạt động thảo luận nhóm còn ít, đôi khi còn mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả của nó. Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy địa lí đã được 10 năm, qua thời gian giảng dạy và áp dụng các hoạt động theo nhóm tôi thấy nảy sinh một số vấn đề cần giải quyết như sau: - Học sinh còn thụ động trong quá trình thảo luận nhóm, đặc biệt là các em học sinh yêú. - Một số học sinh còn bị động và lúng tùng trong quá trình thảo luận. - Nhiều học sinh còn nhút nhát, chưa động não, chưa hoạt động tích cực (chủ yếu là các em học yếu), trong khi đó các em học khá, giỏi thì làm hết phần việc của nhóm. - Thời gian thảo luận chưa đảm bảo, vượt quá thời gian quy định làm ảnh hưởng đến thời gian các hoạt động khác của bài dạy. Ø - Học sinh trong nhóm và học sinh giữa các nhóm nhận xét, bổ sung nội dung thảo luận chưa hiệu quả.
  3. Từ thực tế trên, trong các năm qua tôi đã luôn trăn trở để tìm ra các biện pháp tiến hành hoạt động thảo luận nhóm nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong từng tiết dạy. Qua từng tiết dạy áp dụng hoạt động nhóm ở các khối lớp đối với địa bàn trường tôi đang công tác, tôi đã đúc kết và rút ra được một số kinh nghiệm nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong các giờ lên lớp có nội dung cần thảo luận nhóm. PHẦN II: CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1/ Chuẩn bị hoạt động thảo luận nhóm: Trước khi đưa hoạt động thảo luận nhóm vào một bài dạy giáo viên cần phải trả lời được các câu hỏi sau: Mục tiêu của hoạt động nhóm trong bài này là gì ? Tại sao phải thảo luận tiểu mục này, nội dung này, liệu nó có phù hợp với các mục tiêu tổng thể của bài giảng không ? Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian ? Thời gian còn lại có đủ để hoàn thành bài dạy không ? Hoạt động này yêu cầu giáo viên và học sinh cần chuẩn bị những phương tiện, thiết bị gì ? Học sinh cần phải tham khảo trước các tài liệu nào ? Liệu những yêu cầu đó thầy và trò có đáp ứng được không ? Hoạt động này cần bao nhiêu câu hỏi, cần chia bao nhiêu nhóm, mỗi nhóm bao nhiêu học sinh là phù hợp ? 2/ Chọn câu hỏi (nêu vấn đề) cho học sinh thảo luận : Việc chuẩn bị câu hỏi cho các nhóm thảo luận là một khâu quan trọng. Những câu hỏi quá đơn giản sẽ làm cho thời gian thảo luận buồn tẻ và rất dễ đi đến tình trạng thờ ơ của nhiều học sinh. Do đó nên chuẩn bị những “câu hỏi
  4. mở” tức là câu hỏi có nhiều hướng phát triển, nhiều cách lí giải, đòi hỏi học sinh phải tư duy và trình bày nhiều ý kiến, học sinh phải tranh luận để tìm ra kết quả đúng nhất thì mới lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia. Mặt khác khi chọn vấn đề thảo luận cần lưu ý là phải xem xét, nghiên cứu xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì, suy nghĩ gì về vấn đề giáo viên đưa ra để tránh trường hợp quá sức học sinh thì buổi thảo luận cũng sẽ mất đi ý nghĩa . Nội dung thảo luận có thể lấy từ các câu hỏi khó trong sách giáo khoa hoặc khi khai thác tình huống mâu thuẩn trong bài để cho học sinh thảo luận tìm phương án giải quyết . Ví dụ : Khi giảng về sông ngòi khu vực Đông Á, giáo viên có thể khai thác tình huống có vấn đề cho học sinh thảo luận như: “Tại sao thuỷ chế của hai sông Hoàng Hà và Trường Giang hoàn toàn trái ngược nhau?”. Các câu hỏi thảo luận nên cân nhắc kỹ và chuẩn bị trước trong phiếu học tập (in vi tính ), hoặc tiện nhất là viết sẵn trong bảng phụ ( loại bảng xếp , thảo luận đến câu nào thì mở ra đến câu đó ). Những câu hỏi cần phải tham khảo nhiều tài liệu mới trả lời được thì giáo viên nên phổ biến ở cuối tiết trước (trong phần dặn dò) và giới thiệu cụ thể tên tài liệu tham khảo. Cần lưu ý là mức độ và dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi phải tương đối đồng đều nhau, tránh trường hợp giao cho nhóm này câu hỏi quá dễ còn nhóm kia thì quá khó . 3/ Cách xếp nhóm : Vấn đề đặt ra là xếp bao nhiêu học sinh vào một nhóm là vừa? Cần phải suy nghĩ cẩn thận khi chia học sinh thành nhóm. Nếu chia nhóm không hợp lí thì hoạt động nhóm sẽ thất bại ngay từ đầu vì giáo viên bị mất khả năng kiểm soát lớp. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy xếp từ 4 đến 8 học sinh vào một nhóm là hoạt động có hiệu quả nhất và nhanh nhất vì khi giáo viên yêu cầu thảo luận nhóm thì từng cặp bàn (loại 4 chổ ngồi = nhóm 8 HS ; loại 2 chổ ngồi = nhóm 4 HS ) quay lại với nhau là xong, ít tốn thời gian di chuyển và không gây mất trật tự. Mặt khác nhóm có ít học sinh thì càng có ít học sinh “ăn theo” nên mỗi học sinh đều phải hoạt động, không có học sinh đứng xớ rớ bên ngoài và có ít học sinh thì sự thống nhất ý kiến càng nhanh, đỡ tốn thời gian.
  5. Số lượng nhóm ít nhất phải gấp đôi số lượng câu hỏi thảo luận. Nghĩa là một câu hỏi thì ít nhất phải có hai nhóm cùng thảo luận câu hỏi đó, như vậy mới thực hiện được khâu quan trọng tiếp theo là nhận xét đánh giá lẫn nhau giữa các nhóm. Nhóm này có ý kiến thảo luận khác với nhóm bạn, hoặc đề xuất kết quả hợp lý hơn nhóm bạn thì cuộc thảo luận mới sôi nổi. 4/ Để hoạt động thảo luận nhóm đạt hiệu quả, giáo viên phải thực hiện đầy đủ các bước sau: Cử trưởng nhóm điều khiển thảo luận và thư ký ghi những ý kiến của các thành viên trong nhóm. Phổ biến rõ các câu hỏi thảo luận cho từng nhóm (đã chuẩn bị sẵn trong bảng xếp, hoạêc phiếu học tập ), giải thích rõ yêu cầu thực hiện cho từng câu hỏi để học sinh đi đúng hướng và qui định thời gian thảo luận sao cho hợp lí. Tuyệt đối không phát trước các dụng cụ trình bày (giấy khổ to, bảng phụ, viết ) trước khi hướng dẫn thảo luận vì nếu phát trước học sinh sẽ tiến hành hoạt động chứ không nghe hướng dẫn. Trong thời gian các nhóm thảo luận, giáo viên nhất thiết không được làm việc khác mà phải thường xuyên đi kiểm tra hoạt động của từng nhóm để nắm được em nào hoạt động, em nào không, em nào giành nói suốt và lắng nghe các em trao đổi có đúng hướng không. Nếu phát hiện có thành viên trong nhóm không tham gia hoạt động, giáo viên có thể trực tiếp yêu cầu học sinh đó tham gia phát biểu. Ví dụ : “Em A, em hãy nêu ý kiến của em cho cả nhóm nghe về vấn đề mà nhóm em đang thảo luận”. Nếu thấy nhóm nào gặp khó khăn giáo viên không giải đáp thắc mắc ngay, mà chỉ giúp học sinh hướng tư duy hoặc cung cấp các nguồn dữ liệu , tư liệu cần thiết cho việc làm sáng tỏ vấn đề . Ví dụ: Để giúp học sinh giải thích tại sao thuỷ chế sông Hoàng Hà và Trường Giang hoàn toàn khác nhau, giáo viên gợi ý cho học sinh nhớ lại những yếu tố tự nhiên nào quyết định chế độ nước của một con sông? Nếu học sinh chưa tiếp cận được vấn đề, giáo vên có thể đưa ra một vài gợi ý tiếp theo. Giáo viên nên dành sự giúp đỡ cho các nhóm như nhau, không dành thời gian quá nhiều cho một nhóm hay một cá nhân nào. Giáo viên nên có lời cảnh báo trước khi hết thời gian thảo luận .
  6. Ví dụ : “Chúng ta chỉ còn 2 phút, các em thống nhất ý kiến đi.” Khi hết thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu một em thay mặt nhóm trình bày kết quả thảo luận. Tuỳ nội dung câu hỏi, tuỳ điều kiện từng trường, học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau (dùng đèn chiếu, bảng phụ, giấy khổ to, phiếu học tập ). Khi học sinh các nhóm lên trình bày, giáo viên không nên đưa ra các câu hỏi chất vấn làm học sinh lúng túng hoặc đưa ra câu trả lời đúng, sai lập tức mà phải để ngỏ cho các nhóm khác nhận xét . Để tiết kiệm thời gian, mỗi câu hỏi giáo viên có thể chỉ yêu cầu một vài nhóm trình bày kết quả (nếu các nhóm cùng thảo luận một câu hỏi), các nhóm không được yêu cầu trình bày kết quả thì có nhiệm vụ nhận xét, bổ sung phần trình bày của nhóm bạn nhằm đảm bảo tất cả đều có cơ hội đóng góp ý kiến, qua đó giáo viên cũng đánh giá được kết quả thảo luận của các nhóm này. Khi học sinh các nhóm khác nhận xét bổ sung, giáo viên phải lắng nghe cẩn thận và ghi tóm tắt lên bảng những điểm cơ bản của mỗi ý kiến phát biểu để phát hiện những mâu thuẩn giữa các ý kiến, nếu có ý kiến khác nhau thì kịp thời nêu vấn đề cho học sinh tiếp tục giải quyết, tuy nhiên không nên để cuộc thảo luận chệch hướng hoặc kéo dài vì một vấn đề nhỏ. Khi các nhóm không còn ý kiến bổ sung, giáo viên phải dành đủ một khoảng thời gian thích đáng trong giờ giảng để nhận xét các ý kiến của học sinh và thực hiẹân một quá trình phản hồi đầy đủ và hoàn chỉnh các thông tin học sinh cần ghi nhớ mà giáo viên đã chuẩn bị trước trong bài. Sau đó giáo viên đặt câu hỏi kiểm tra một số em xem các em đã nắm được vấn đề chưa. Cuối cùng giáo viên cũng nên khuyến khích, động viên học sinh tiếp tục tham gia phát biểu trong những lần sau bằng cách tỏ thái độ hài lòng, thích thú, khen ngợi kịp thời những câu trả lời của học sinh, hoặc cho điểm những học sinh xuất sắc. 5/ Biện pháp khuyến khích mọi thành viên trong nhóm tham gia thảo luận: Trong các tài liệu hướng dẫn yêu cầu giáo viên cho mỗi nhóm tự bầu nhóm trưởng, thư ký. Tuy nhiên qua thực tế áp dụng chúng tôi thấy không hiệu quả bằng việc giáo viên chỉ định và bồi dưỡng lần lượt từng học sinh trong nhóm luân phiên theo thứ tự làm nhóm trưởng hoặc thư ký. Làm như vậy để mỗi học sinh đều có khả năng hướng dẫn thảo luận trong nhóm mình. Kinh nghiệm này theo chúng tôi là có thể chấp nhận được vì nó giúp cho mọi học
  7. sinh đều có điều kiện để bồi dưỡng cho mình năng lực tổ chức, điều khiển hoạt động học tập và nâng cao hứng thú tìm tòi, nghiên cứu, tránh được thói quen cả nhóm chỉ trông chờ, ỷ lại vào một vài thành viên nổi trội trong nhóm mình. Đối với những lớp chưa có phong trào và thói quen học tập tốt, giáo viên cũng không nên để cho nhóm tự cử đại diện báo cáo kết quả thảo luận mà giáo viên chỉ định bất kì một thành viên trong nhóm (chú ý những học sinh có thái độ lơ là) đứng lên báo cáo kết quả thảo luận của nhóm và giáo viên có thể đặt thêm một số câu hỏi phụ yêu cầu học sinh đó lí giải những nội dung vừa trình bày để kiểm tra xem học sinh đó có tham gia thảo luận không, có hiểu vấn đề không, qua đó giáo viên có thể kịp thời uốn nắn và nhắc nhở, cho điểm các em tuỳ theo mức độ. Có như vậy thì mọi thành viên trong nhóm mới tập trung tham gia thảo luận, khắc phục được tình trạng chỉ có nhóm trưởng và thư kí làm việc, còn các học sinh khác (đa số là những học sinh yếu hoặc lười biếng) cứ ngồi làm việc riêng hoặc có thái độ ỷ lại, bất hợp tác, chờ đến khi nào giáo viên đưa kết quả chuẩn xác rồi ghi vào vở mà không hiểu gì cả. Cần chú ý là giáo viên bộ môn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp để phân chia chỗ ngồi cho học sinh đảm bảo trong mỗi nhóm phải có cả học sinh yếu, học sinh trung binh và khá, giỏi. Để phần nào làm rõ hơn phần trình bày ở trên, chúng tôi xin nêu một vài ví dụ cụ thể như sau : Ví dụ 1 : Bài 10 ( Địa 8 ): Điều kiện tự nhiên của khu vực Nam Aù Sau khi nghiên cứu mục tiêu bài học chúng tôi thấy một trong các kiến thức và kĩ năng mà học sinh cần đạt đựơc là phải biết sử dụng, phân tích lược đồ phân bố mưa để thấy được sự ảnh hưởng của địa hình đối với sự phân bố lượng mưa trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó ở phần 2 (khí hậu) chúng tôi chọn phương pháp cơ bản là thảo luận nhóm. Ở bước chuẩn bị : + Chúng tôi chọn câu hỏi mở đầu là “Bằng kiến thức đã học ở bài 2 hãy nhắc lại khu vực Nam Á chủ yếu nằm trong đới khí hậu nào? Có lượng mưa ra sao?” + Chọn câu hỏi thảo luận là “Dựa vào lược đồ hình 10.2 hãy nhận xét và giải thích lượng mưa ở 3 địa điểm : Se-ra-pun-đi, Mum-bai, Mun-tan?”.
  8. + Dự kiến thời gian cho hoạt động này là 5 phút. + Phương tiện thực hiện là bảng xếp (dành cho giáo viên) và phiếu học tập in sẵn (dành cho học sinh) có nội dung như sau : PHIẾU HỌC TẬP Nhóm : - Địa điểm : - Lượng mưa : - Giải thích : + Tổ chức nhóm: Do phòng học chúng tôi đang dạy có 2 dãy bàn, mỗi dãy 6 bàn nên chúng tôi dự kiến chia làm 6 nhóm, mỗi nhóm 2 bàn ( khoảng 8 HS / nhóm). Tiến hành hoạt động: + Giáo viên mở trang đầu bảng phụ có ghi sẵn nội dung câu hỏi mở đầu, gọi một học sinh trả lời, sau đó giáo viên đặt vấn đề để gây sự chú ý cho học sinh. + Giáo viên mở trang 2 của bảng xếp có ghi sẵn nội dung thảo luận. + Giáo viên phân nhóm theo dự kiến, cử nhóm trưởng, thư kí. + Giáo viên treo lược đồ hình 10.2 phóng to. + Giáo viên dựa vào lược đồ giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm ( Một địa điểm có 2 nhóm nhận xét và giải thích ). + Yêu cầu các nhóm ngồi vào vị trí (từng cặp bàn quay lại với nhau). + Phát phiếu học tập và công bố thời gian thảo luận. + Giáo viên đi quan sát từng nhóm, nhắc nhở học sinh trong nhóm tập trung thảo luận, nếu nhóm nào không biết giải thích giáo viên gợi ý từng bước như “các em hãy quan sát xem địa điểm này chịu ảnh hưởng của hướng gió nào, nó từ đâu thổi đến, có tính chất ra sao?, so với hướng của địa hình thì như thế nào? ”, tuỳ tình hình mà giáo viên có gợi ý giúp học sinh tư duy.
  9. + Còn khoảng 2 phút giáo viên nhắc học sinh thống nhất ý kiến và ghi vào phiếu học tập. - Kết thúc hoạt động: + Yêu cầu học sinh quay lại vị trí ban đầu. + Giáo viên gọi học sinh nhóm một báo cáo kết quả thảo luận của nhóm mình ở địa điểm thứ nhất và gọi nhóm hai cùng thảo luận ở địa điểm thứ nhất có ý kiến nhận xét bổ sung (hoặc ngược lại), giáo viên yêu cầu cả lớp có thêm ý kiến nếu thấy còn chưa đủ. Các ý kiến bổ sung giáo viên ghi tóm tắt nhanh lên bảng. Khi không còn ý kiến, giáo viên dựa vào lược đồ để chuẩn xác kiến thức, sau đó giáo viên liên hệ lại những ý kiến học sinh vừa phát biểu để đánh giá kết quả thảo luận, khen ngợi những ý kiến đúng. + Tương tự như vậy, thầy-trò cùng phân tích, giải thích hai địa điểm còn lại. + Cuối cùng để kiểm tra mức độ nhận thức cũng như khả năng khái quát vấn đề, giáo viên đặt thêm hai câu hỏi và chỉ định bất kỳ học sinh nào để trả lời: Em hãy rút ra kết luận về sự phân bố lượng mưa ở Nam Á? Nguyên nhân của sự phân bố đó? Nếu học sinh trả lời được hai câu hỏi trên coi như đã đạt yêu cầu. Ví dụ 2 : Bài 22 (Địa 6 ): Các đới khí hậu trên Trái Đất. Khi thiết kế bài này chúng tôi xác định trọng tâm là mục 2: Sự phân chia bề mặt trái đất ra các đới khí hậu theo vĩ độ. Ở mục này cần phải đạt được hai mục tiêu: - Kiến thức: Học sinh trình bày được vị trí của các đai nhiệt, các đới khí hậu và đặc điểm của các đới khí hậu theo vĩ độ trên bề mặt Trái Đất. - Kỹ năng: Biết xác lập mối quan hệ nhân quả giữa góc chiếu sáng, thời gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ của không khí. Để đạt hai mục tiêu trên, chúng tôi chọn phương pháp thảo luận theo nhóm.
  10. - Ở bước chuẩn bị : + Chúng tôi thiết kế hai phiếu học tập phục vụ cho hai hoạt động nhóm. Phiếu học tập số 1: thiết kế dạng bảng tổng hợp để học sinh dựa vào đó làm rõ các đặc điểm của từng đới khí hậu trình bày trong sách giáo khoa. Phiếu học tập số 2: thiết kế dạng sơ đồ trống để học sinh củng cố kiến thức và hình thành mối quan hệ nhân quả giữa góc chiếu sáng, thời gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ của không khí. PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1 Nhóm : Đới Vị trí Góc chiếu Nhiệt độ Gió thổi Lượng của ánh thường mưa trung ( vĩ độ ) sáng Mặt xuyên bình năm Trời (mm) PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2 Nhóm : Góc chiếu sáng: Nhiệt Nhiệt độ Đới lượng hấp không khí thụ: : . Thời gian chiếu . sáng: .
  11. + Phương thức thực hiện là tổ chức hai hoạt động nhóm nối tiếp nhau. HƯỚNG DẪN TẢI TÀI LIỆU Truy cập đường link được cung cấp: