Đề ôn tập môn Ngữ văn Lớp 10 - Văn bản: Chữ người tử tù

docx 11 trang Hùng Thuận 21/05/2022 5390
Bạn đang xem tài liệu "Đề ôn tập môn Ngữ văn Lớp 10 - Văn bản: Chữ người tử tù", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_on_tap_mon_ngu_van_lop_10_van_ban_chu_nguoi_tu_tu.docx

Nội dung text: Đề ôn tập môn Ngữ văn Lớp 10 - Văn bản: Chữ người tử tù

  1. Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) A, Kiến thức cơ bản Trước cách mạng • Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn thuần túy • Sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung vào ba đề tài chính: Chủ nghĩa xê dịch: Nguyễn Tuân quan niệm nhà văn phải đi nhiều để thay đổi thực đơn cho các giác quan của mình. Như vậy người nghệ sĩ sẽ có thêm nhiều trải nghiệm để có vốn sống cho giao tiếp. Đời sống trụy lạc: gắn liền với bi kịch chung của một bộ phận thanh niên trí thức khi chưa giác ngộ cách mạng. Họ dùng những thú vui để quên đi nỗi buồn trong hiện thực. Vang bóng một thời: viết về những giá trị cổ truyền của Dân tộc nay chỉ còn vang bóng. • Phong cách nghệ thuật Gói gọn trong chữ NGÔNG Nguyễn Tuân quan niệm nhà văn phải là người có sự tài hoa hơn đời là dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách chói lọi nhất. Biểu hiện cụ thể của phong cách ngôn ngữ. Tài hoa: Nguyễn Tuân có sở trường tiếp cận con người dưới góc độ tài hoa nghệ sĩ và tiếp cận sự vật dưới góc độ văn hóa thẩm mỹ. Uyên bác: Nguyễn Tuân am hiểu kiến thức lĩnh vực khác và ông vận dụng rất thành công vào trang viết của mình. Cảm quan nghệ thuật sắc nhẹm: Nguyễn Tuân có sở trường khám phá những gì độc đáo mới lạ bằng một lối viết không chung lớp với bất cứ ai. Ngôn ngữ phong phú và biến hóa khôn lường. Vị trí: Nguyễn Tuân là một trong chín tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông là một nhà văn duy mỹ, cả đời chỉ tôn thờ một thứ tôn giáo duy nhất đó chính là cái đẹp. • Tác phẩm: • Hoàn cảnh sáng tác: truyện ngắn gắn liền với bối cảnh hiện tượng xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1945 • Nguyễn Tuân gọi thời đại mình sống là cười mưa âu gió à, vàng thau lẫn lộn như vậy chứng tỏ một điều văn hóa phương tây ồ ạt du nhập vào nước ta với nhiều nét lố lăng kệch
  2. cỡm mà khiến cho các giá trị truyền thống đạo đức bị đảo lộn. • Truyện ngắn phản ánh hiện thực về nên Hán học suy tàn đổ nát gắn vô liền với lớp nhà nho cuối mùa. Xuất xứ, vị trí: • Xuất xứ: in trong tập “Vang bóng một thời” năm 1940. • Vị trí: Nếu ví “Vang bóng một thời” là một chuỗi ngọc thì “Chữ người tử tù” là viên ngọc đẹp nhất còn Huấn Cao là ảnh ngọc sáng người nhất. Truyện ngắn hội tụ đầy đủ những nét phong cách nghệ thuật đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân Nhan đề: • Lúc đầu truyện ngắn có tên là “Dòng chữ cuối cùng” có phần mang màu sắc bi quan và tuyệt vọng. Sau đó nhà văn đã đổi lại tên gọi cho đứa con tinh thần của mình là “Chữ người tử tù”. Tên gọi này vừa bao quát được nội dung tác phẩm vừa thể hiện niềm tin của tác giả vào cái đẹp Tóm tắt: • Truyện ngắn kể về cuộc gặp gỡ kỳ lạ khác thường giữa hai nhân vật Huấn Cao là một người đứng đầu phong chào khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến Nguyễn, là hiện thân cho thân phận của một tử tù đợi ngày ra pháp trường. Là người có tài viết chữ đẹp lan truyền và ngưỡng mộ khách một vùng tỉnh Sơn. • Viên quản ngục: làm công việc cai quản nhà giam. Đặc biệt đam mê nghệ thuật thư pháp và ngưỡng mộ tài năng của Huấn Cao. Viên quản ngục khao khát có một ngày xin được chữ ông Huấn để treo ở nhà riêng của mình. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông nhưng vẫn bị Huấn Cao coi thường và khinh bỉ. Quản ngục tâm sự niềm khao khát tấm thầm kín của mình cho thầy thơ lại. Thầy thơ lại đã kể lại hết nỗi lòng của anh cho Huấn Cao vào đêm cuối cùng trước ngày Huấn Cao lên kinh nhận án tử • Huấn Cao đồng ý cho chữ quản ngục trong một khung cảnh vô cùng đặc biệt. Kết thúc tác phẩm Huấn Cao khuyên quản ngục hãy bỏ nghề về quê để giữ thiên lương trong sạch. Quản ngục cúi đầu bái lĩnh, xúc động trước tấm chân tình của người nghệ sĩ tài hoa. • Nhận định: “Chỉ những người ưa suy suy xét đoàn Nguyễn tuâ tuân mới thấy thú vị vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan) “Nguyễn Tuân là một biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn” (Vũ Ngọc
  3. Phan) Vũ Ngọc Phan đánh giá về Tập truyện vang bóng một thời: Vang bóng một thời có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. “Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp cái thật” (Nguyễn Đình Thi) Nguyễn Tuân tự nhận mình là “người sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Tố Hữu) Nhân vật Huấn Cao • Khái quát: Đây là nhân vật trung tâm linh hồn của tác phẩm. Huấn Cao là một trong những nhân vật được đánh giá là đẹp nhất đời văn Nguyễn Tuân. “Chữ người tử tù” còn được mệnh danh là tác phẩm kết tinh tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám. Đây là một trong những nhân vật điển hình lý tưởng kết tinh một vẻ đẹp hoàn mỹ tài hoa, khí phách trí dũng hơn người và đặc biệt là có một thiên lương trong sáng. • Đặc điểm: Đây là nhân vật mang nhiều vẻ đẹp toàn diện về cả về lí tưởng và khả năng siêu phàm. Là hình tượng nhân vật tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn. Huấn Cao có nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát. Cao Bá Quát là một người anh hùng khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến đồng thời ông cũng chính là nhà thơ có tài năng nghệ thuật. Dù cho chí lớn không thành nhưng khí phách vẫn hiên ngang và bất khuất. Tấm gương của Cao Bá Quát vẫn vang vọng nghìn đời bởi lẽ được kết tinh bằng tài năng và khí phách của một con người hơn người. Phân tích: ❖ Luận điểm 1: Vẻ đẹp tài hoa gắn liền với nghệ thuật thư pháp Là thú chơi chữ của người xưa vô cùng tao nhã và thiêng liêng. Chữ được viết là chữ hán, viết bằng bút lông trên phiến gỗ hoặc tấm lụa. Viết chữ đẹp là một nghệ thuật con người viết chữ đẹp chính là bậc nghệ sĩ. Nét chữ không chỉ thể hiện tài năng mà còn in dấu tâm tư, tình cảm của người viết. thế nhưng Huấn Cao lại là người nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp với những nét chữ tài hoa, điêu luyện. Và tài năng đó nổi bật qua cuộc đối thoại giữa quản ngục và thầy thơ lại. Viên quản ngục dành lời khen ngợi về tài năng xuất chúng của Huấn Cao: “Huấn Cao! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”.
  4. Lời khen ấy đến từ một kẻ đối đầu đại diện cho triều đình phong kiến cho thấy danh tiếng vang xa cũng như sự công nhận thật khách quan về bản lĩnh, trí tuậ và tài năng vượt bậc của Huấn Cao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao và danh tiếng vang xa của ông được lan truyền tựa như một huyền thoại mà khắp vùng tỉnh Sơn đều biết. Phải chăng cái đẹp đã được công nhận và ngưỡng mộ khắp nơi. Qua sở nguyện thiêng liêng và cao quý của Quản Ngục - Dẫn Chứng: cái sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối đỏ do ông Huấn Cao viết, “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”, “Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời” Viên quản ngục dành những mĩ từ thật hay, thật đẹp để ngợi ca, trân trọng và ngưỡng mộ tài năng xuất chúng của Huấn Cao. Dường như trong cái sở nguyện tha thiết đó ông đã nhìn rõ giá trị thiêng liêng cao quý trong nét chữ của Huấn Cao. Chính niềm say mê cái đẹp, lòng ngưỡng mộ cái tài và ngưỡng mộ dòng chữ đẹp của Huấn Cao đã chi phối thái độ, tâm trạng và hành động của quản ngục. Ở hai đầu chiến tuyến nhưng chính quản ngục lại là người say mê cái tài, cái chữ của Nguyễn Tuân hơn tất thảy. Ông luôn khao khát có được chữ của ông Huấn để treo trong nhà, khát khao của quản ngục càng lớn bao nhiêu, tài năng của Huấn Cao càng được tỏa rạng bấy nhiêu. Qua dụng công xin chữ của quản ngục. ▪ Dẫn chứng: Hành động biệt đãi với Huấn Cao, Quản ngục sai người quét dọn căn buồng giam trong cùng dành riêng cho ông Huấn, Hằng ngày sai lính đem rượu thịt mời Huấn Cao và năm đồng chí của ông. Tất cả những biệt đãi mà viên quản ngục dành cho Huấn cao không chỉ xuất phát từ dụng công xin chữ muốn có được “vật báu trên đời” mà còn là sự kính phục, kiêng nể tài năng phi thường của Huấn Cao. Chính vì lẽ đó, thái độ của quản ngục khi nhận sáu tử tù: “Hôm nay viên quan cai ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành”.vì xem trọng và ngưỡng mộ sự tài hoa, tài năng của Hc mà Ông chấp nhận bị coi thường, thậm chí là bị sỉ nhục bởi trong tư tưởng của Huấn Cao viên quản ngục chỉ là một kẻ tiểu nhân với những trò quỷ quái xấu xa đê tiện.Dụng công xin chữ của quản ngục càng công phu bao nhiêu lại càng thể hiện được tài năng của Huấn Cao bấy nhiêu. ❖ Luận điểm 2: Vẻ đẹp khí phách khiến Huấn Cao mang trong mình tầm vóc của một
  5. người anh hùng hiên ngang, bất khuất trong mọi hoàn cảnh. Hầu hết các truyện trong “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân đều được khai thác ở góc độ tài hoa, tài tử. Nhưng không chỉ vậy, Huấn Cao còn được hiện lên với khí phách của một người anh hùng. Chính đặc điểm này đã khiến hình tượng Huấn Cao trở nên “đẹp lồng lộng giữa các nhân vật của Vang bóng một thời”. a. Trước khi vào tù * Huấn Cao là người lãnh đạo quần chúng nhân dân chống lại triều đình phong kiến: Ông không chịu sống gò bó theo những tư tưởng chật hẹp, lạc hậu của triều đình phong kiến mà sống theo đúng cá tính tự do, phóng túng của mình (liên hệ với người Anh Hùng Từ Hải trong truyện Kiều của nguyễn Du) “Chọc trời khuấy nước mặc dầu Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” Ở đó, ta bắt gặp hình ảnh của Nguyễn Tuân - một con người của “chủ nghĩa xê dịch”, không chịu được cảnh tù túng, chật hẹp, luôn muốn đi đấy, đi đó để thay đổi thực đơn cho giác quan. Huấn Cao vừa là nhân vật được nhà văn lấy cảm hứng từ nguyên mẫu người anh hùng Cao Bá Quát dũng cảm lãnh đạo nhân dân chống lại triều đình, vừa là sáng tạo mang đậm dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân. Trong văn chương, “nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ” (Sê- khôp). Với một cá tính tài năng như Nguyễn Tuân, ông không lặp lại ai và cũng không cho ai bắt chước được mình. Chính điều này đã giúp các tác phẩm và nhân vật của Nguyễn Tuân luôn hiện lên với vẻ đẹp độc nhất vô nhị, không gì có thể sánh bằng. Huấn Cao mang bóng dáng của nguyên mẫu ngoài đời thực đó là người anh hùng Cao Bá Quát, thể hiện tinh thần dũng cảm lãnh đạo quần chúng nhân dân chống lại triều đình nhà Nguyễn. Sau khi vào tù ▪ Ông có tài bẻ khoá, vượt ngục “Huấn Cao Ngoài có tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa”. Huấn Cao mang trong mình khí phách của người anh hùng không cam chịu và chấp nhận hoàn cảnh luôn hướng tới bầu trời tự do để đấu tranh vì chính nghĩa được thể hiện qua “hành động rỗ gông” Huấn Cao “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thêm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Âm thanh mạnh mẽ vang vọng làm rung chuyển cả nhà tù phong kiến được để hiện qua động từ thuỳnh . Khí phách của một người anh hùng vượt lên trên hoàn cảnh và chiến
  6. thắng hoàn cảnh. Nhà tù chỉ có thể giam giữ được thể xác nhưng không thể giam giữ được tinh thần và khí phách của Huấn Cao. Huấn Cao sa cơ nhưng không thất thế: ông vẫn còn nguyên vẹn phong thái của một người vị thủ lĩnh đứng đầu với một sức mạnh phi thường. Một chiếc gông nặng và năm người bạn ở phía sau nhưng bằng sức mạnh của Huấn Cao, chiếc gông được rỗ mạnh xuống đất. Có thể khẳng định, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, Huấn Cao chính là hiện thân của sức mạnh, khí phách chính nghĩa và tự do. ▪ Thái độ của Huấn Cao trước sự biệt đãi của Quản Ngục • Ông Huấn Cao “vẫn thản nhiên nhận rượu thịt coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm” Chốn ngục tù không làm mất đi phong cách sống ung dung tự tại của Huấn Cao. Ông đã đối đáp thẳng thắn và cứng cỏi trước sự lễ phép và khiêm nhường của quản ngục: “Ta chỉ muốn có một điều là nhà người đừng đặt chân vào đây”. Thái độ khinh bạc dám nói ra suy nghĩ của mình mà không hề run sợ trước quyền uy. Hơn nữa, Huấn Cao không coi mình là người đang bị giam hãm, cầm tù mà vẫn là người tự do nên việc nhận đối đãi tử tế như vậy là bình thường. Ở chốn lao tù nhưng Huấn Cao vẫn hiên ngang, không hề run sợ, giữ vững khí phách của một thủ lĩnh, một kẻ dẫn đầu sẵn sàng chọc trời, khuấy nước vì lẽ sống phóng túng, tự do. • “Viên quản ngục, không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Trong con mắt của Huấn Cao, quản ngục đại diện cho cái xấu cái ác làm tay sai cho triều đình phong kiến. Vì vậy Huấn Cao vô cùng coi thường và căm ghét. • Sức mạnh về quyền lực, địa vị, vật chất không thể nào làm Huấn Cao lay chuyển. Ông hoàn toàn kiên định với lập trường tư tưởng vững chắc của mình. Thậm chí, khi tỏ ý khinh bỉ rẻ rúng, coi thường quản ngục, Huấn Cao đã “đợi sẵn một trận lôi đình báo thù với những thủ đoạn tàn bạo” - quả là một con người dám làm, dám chịu, dám hành động theo suy nghĩ của bản thân! ❖ Luận điểm 3: Vẻ đẹp thiên lương cao quý. ▪ Huấn Cao là một người có tấm lòng trong sáng nhân hậu, yêu cái đẹp. Bởi ông có một
  7. “Quan niệm thẩm mỹ vô cùng thanh cao”. “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Cả một đời Huấn Cao mới chỉ viết đoạn chữ cho ba người bạn thân nhất. Như vậy Huấn Cao quan niệm cái đẹp phải xuất phát từ những tấm lòng tri âm tri kỷ, nghệ thuật hay cái đẹp phải được sáng tạo từ cái tâm “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ ông ít cho ai chữ”. Nếu người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp bị phụ thuộc vào quyền uy hay vật chất, cái đẹp sẽ trở nên dễ dàng và nghệ thuật không còn là chân chính nữa. Khi ấy, con người ta sẽ dễ dàng bị điều khiển bởi danh lợi, lòng tham, bởi những mưu cầu vật chất tầm thường mà quên mất đi bản chất vốn có của nghệ thuật: “làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). ▪ Huấn Cao hết sức trân trọng viên quản ngục khi thấu hiểu tấm long và thiên lương trong sáng của ông. “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao thể hiện sự day dứt, trăn trở vì đã có lúc hiểu nhầm thầy quản. Ông nhận ra sợi dây kết nối giữa mình và quản ngục bởi vẻ đẹp “biệt nhỡn liên tài và sở thích cao quý” của quản ngục. Tuy họ có hai địa vị xã hội trái ngược nhau nhưng đều gặp gỡ ở lòng yêu cái đẹp tha thiết. Huấn Cao ngay lập tức đồng ý cho chữ quản ngục. Huấn Cao muốn dùng tấm lòng tri âm để đền đáp tấm lòng tri kỷ của quản ngục. ❖ Luận điểm 4. Ba vẻ đẹp của Huấn Cao- hội tụ trong cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. 4.1 Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có: sự độc đáo, mới mẻ của một nhà văn đã có cảm quan nghệ thuật vô cùng sắc sảo * Không gian: Người xưa thường cho chữ trong một không gian thiêng liêng trang trọng và tao nhã. Đó có thể là chốn thư phòng hoặc giữa khung cảnh thiên nhiên là tĩnh mịch. Huấn Cao cho chữ trong một buổi tối chật hẹp, ẩm ướt tường đây mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Đây là một trong những không gian chứa đầy bóng tối, cái xấu và cái ác, tưởng chừng như không thể khai sinh ra cái đẹp. • Thời gian: người xưa thường cho chữ lúc tâm hồn của họ thư thái, thanh thản tĩnh lặng. Huấn Cao cho chữ trong khoảng thời gian: đêm khuya cảnh cho chữ có màu sắc thiêng liêng đầy bí ẩn. Lại diễn ra vào đêm cuối cùng trước ngày Huấn Cao phải lên kinh chịu án tử. Đây là những thời khắc cuối cùng trong một đời con người. Vì vậy nét chữ của Huấn
  8. Cao sẽ trở thành lời di huấn mà người nghệ sĩ để lại cho những người yêu cái đẹp. • Thông thường, người tham gia thú chơi là những người am hiểu chữ nghĩa, trọng đạo Thánh Hiền, những bậc tao nhân mặc khách. Tuy nhiên, trong tác phẩm, cùng chụm đầu vào “tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ” là những con người tưởng chừng như không bao giờ biết đến cái đẹp: một tử tù án chém, một viên quan cai ngục và một tên bát phẩm thơ lại. Ở đây, Nguyễn Tuân đã triệt để khai thác thủ pháp tương phản đối lập: giữa phẩm chất, thân phận, địa vị của 3 con người này để làm nổi bật cảnh xưa nay chưa từng có. • Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa bóng tối và ánh sáng Bóng tối: căn buồng tối tăm, chật hẹp giam giữ Huấn Cao. Trại giam tỉnh Sơn bao trùm là màn đêm đen dày đặc. Xã hội phong kiến đầy dậy sự bất công ngang trái. • Một người mang trong mình một vẻ đẹp lý tưởng hoàn hảo như Huấn Cao cũng bị đẩy đến cái chết. • Ánh sáng bó đuốc mang trong miền ánh sáng đỏ rực, đám lửa cháy rừng rực, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Thứ ánh sáng tỏa ra từ tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lẫn hồ. Tỏa ra từ mùi thơm chậu mực bút lên. Ánh sáng đặc biệt tỏa ra từ tâm hồn, nhân cách của một người trong cảnh cho chữ. Đó là người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp và người biết thưởng thức cái đẹp ở đời Nhận xét về ý nghĩa của biểu tượng: • Bóng tối là biểu tượng cho cái xấu và cái ác. Là hình ảnh thu nhỏ của xạ xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 1945 mà Nguyễn Tuân gọi là mưa Á gió Âu, vàng thau lẫn lộn. • Ánh sáng biểu tượng cho cái đẹp, cái cao quý. Cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa bóng tối và ánh sáng. Bóng tối bao phủ, tìm mọi cách len lỏi khắp không gian nhưng chiến thắng cuối cùng về ánh sáng. Như vậy cái đẹp đã dành chiến thắng chói lọi và hoàn toàn trước cái xấu, cái ác. Đây là một khung cảnh vô cùng độc đáo và ấn tượng để làm nổi hình nổi bật ba vẻ đẹp của Huấn Cao. Có áp bức thì hẳn sẽ có đấu tranh. Trong không gian tăm tối của chốn lao tù, hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân chính là sự nổi loạn, đấu tranh của cái đẹp. Ánh sáng sẽ xua đi bầu không gian tăm tối cũng giống như cái đẹp sẽ cứu rỗi những tâm hồn có khả năng bị vấy bẩn ở nơi xấu xa, đui mù. 4.2: Ba vẻ đẹp của Huấn Cao được thể hiện trong cảnh cho chữ Vẻ đẹp tài hoa: những nét chữ vuông tươi tắn. Đây là lần duy nhất trong tác phẩm
  9. người đọc được trực tiếp cận cảnh chiêm ngưỡng nét chữ của Huấn Cao. Nét chữ Huấn Cao mang vẻ đẹp hài hòa thẩm mỹ theo chuẩn mực của nghệ thuật tư pháp. Chúng ta có thể liên hệ với ông đồ của Vũ Đình Liên “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay”. Vẻ đẹp khí phách: “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng căng phẳng trên mảnh ván” ▪ Nghệ thuật đối lập tương phản giữa con người và hoàn cảnh. Dù phải chịu cảnh ngộ mất tự do nhưng người nghệ sĩ vẫn say sưa sáng tạo cái đẹp với một phong thái hoàn toàn ung dung tự tại.Nhà tù không thể giam giữ được tài năng, vẻ đẹp thiên lương cao quý của Huấn Cao. Con người vượt lên trên hoàn cảnh và chiến thắng hoàn cảnh. Qua nét chữ đẹp thấy được: “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Sự tự do phóng túng trong cách viết chữ cho thấy chân dung của một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất với một khí thế lớn lao, cao cả thể hiện rõ qua vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Điều gì đã khiến một tử tù có sức mạnh lớn lao đến vậy? Dường như, đó là nguồn sức mạnh tỏa ra từ cái đẹp, từ chính tâm hồn nghệ thuật chân chính. Giữa bộn bề cái xấu, cái ác ngổn ngang, ý chí cả đời người và chữ của Huấn Cao chính là ánh sáng chói lọi, thắp sáng cả gian phòng tăm tối. Đúng như quan niệm của Đô-xtôi-ép-xki: “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. ▪ Sự đối lập tương phản trong tư thế thái độ của những người trong cảnh cho chữ: Huấn Cao bản lĩnh cứng cỏi, mạnh mẽ, viên quản ngục thì khúm núm, thầy Thơ lại lại thì run run. Quản ngục và thầy thơ lại thể hiện ở sự kính nể ngưỡng mộ trước tài hoa, khí phách của Huấn Cao. Cái đẹp là nguyên nhân làm nên sự đảo lộn về vị thế, thái độ giữa những con người ấy. Mọi nguyên tắc đều bị bỏ qua chỉ có cái đẹp lên ngôi thăng hoa và tỏa sáng. Vẻ đẹp thiên lương ▪ Qua lời khuyên Huấn Cao với quản ngục: Huấn Cao khuyên thầy quản ngục nên tay trốn ở đi. Hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến cảnh chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời thiên lương đi. Sự thấu hiểu đồng cảm của Huấn Cao việc tâm tư vào nỗi lòng của quản ngục: Huấn Cao hiểu rõ hoàn cảnh xô đẩy mà quản ngục trở thành công cụ của triều
  10. đình phong kiến. Bản thân quản ngục không có sự đam mê và yêu mến với công việc mình làm. Kẻ tử tù là tội phạm đáng ra phải khúm núm, run run trước viên quan cai ngục thì ở đây lại hiện lên trong tư thế đường hoàng, đường vệ. Trong khi đó, quản ngục và thầy bát là những kẻ đạp diện cho quyền uy thì ở đây lại khúm núm, run run. Lẽ thường, quản ngục là người lên tiếng răn dạy, giáo huấn tử tù nhưng trong tác phẩm, quản ngục lại nhận lời giáo huấn, răn dạy của tử tù trong sự xúc động, nghẹn ngào. Nhờ vậy, ta có thể nhận thấy rõ sự hoán đổi về địa vị, thân phận, tư thế, thái độ của các nhân vật trong tác phẩm. ▪ Trong thân phận tử tù nhưng Huấn Cao không hề quan tâm đến sinh mệnh của mình. Huấn Cao chỉ băn khoăn trăn trở về cuộc sống sao cho đáng sống của người khác. Thiên lương trong sáng, tấm lòng lương thiện, nhân hậu của Huấn Cao: muốn quản ngục được sống đúng với niềm đam mê và tính cách thật sự của mình ▪ Thái độ của quản ngục khi tiếp nhận lời khuyên của Huấn Cao:Mục quan cảm động với người tù, vái người tù một vái, chấp tay nói một câu mà dòng nước mắt gỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cái cúi đầu không làm cho quản ngục bé nhỏ và thấp hèn đi. Thể hiện thái độ ngưỡng mộ, tôn vinh, nghiêng mình trước cái đẹp của người nghệ sĩ. Phải chăng đó là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai “nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Thể hiện niềm tin của người đọc vào số phận của cái đẹp. Người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp không còn nữa nhưng quản ngục sẽ là người kế thừa để mang cái đẹp của Huấn Cao lan truyền với cuộc đời. ▪ Quản ngục tiếp nhận lời khuyên của Huấn Cao cho thấy sức mạnh và khả năng cảm hóa kỳ diệu của cái đẹp. Có thể nói, bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân đã tạo ra cuộc chạm trán giữa hai loại tù nhân đầy ngoạn mục: người bị cầm tù về cơ thể (Huấn Cao) và kẻ bị cầm tù về nhân cách (quản ngục). Đó cũng chính là sự đối chọi của hai loại uy quyền: uy quyền phàm tục đại diện bởi quản ngục và uy quyền cái đẹp với nhân vật đại diện là Huấn Cao. Cuối cùng, với sức mạnh đánh thức lương tri, uy quyền của cái đẹp đã chiến thắng. Vì vậy, có ý kiến cho rằng: “Cảnh cho chữ là sự nổi loạn, sự lên ngôi của cái đẹp”. ❖ Luận điểm 5: Nhân vật thể hiện quan niệm thẩm mỹ đầy tính nhân văn: cái đẹp có thể này mầm trên cái xấu cái ác nhưng nhất định không được chung sống với cái xấu cái ác.
  11. Người yêu cái đẹp rất khoát phải là người có tấm lòng trong sáng và hành động đáng qúy.