Bí quyết học đâu nhớ đó

pdf 198 trang dichphong 3340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bí quyết học đâu nhớ đó", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbi_quyet_hoc_dau_nho_do.pdf

Nội dung text: Bí quyết học đâu nhớ đó

  1. Khám phá ra một phép ẩn dụ hay hình ảnh so sánh gợi liên tưởng tới khái niệm là một hình thức diễn giải hiệu quả. Chẳng hạn, để hiểu những nguyên lý về mô men động lượng trong vật lý, bạn hãy thử hình dung xem một vận động viên trượt băng nghệ thuật tăng tốc vòng xoay của mình ra sao khi cô kéo cánh tay sát vào cơ thể. Khi bạn học những nguyên lý về truyền nhiệt, bạn có thể hiểu nhiều hơn về sự dẫn nhiệt nếu bạn tưởng tượng mình đang làm ấm hai bàn tay quanh một cốc ca cao nóng. Đối với tia phóng xạ, hãy hình dung xem mặt trời ẩn đi như thế nào trong một ngày đông giá. Khi bạn học về cấu tạo của một nguyên tử, giáo viên vật lý của bạn có thể đã so sánh nó với hệ mặt trời, trong đó mặt trời giống như một hạt nhân và các electron xoay xung quanh nó như những hành tinh quanh mặt trời. Bạn càng làm sáng tỏ được cách thức những vấn đề mới liên hệ với những kiến thức bạn đang có thì bạn càng hiểu biết thấu đáo về những vấn đề đó, bạn càng thiết lập được nhiều mối liên kết thì bạn càng ghi nhớ được lâu hơn. Trong phần sau của chương này, chúng tôi sẽ tường thuật lại quá trình giáo sư sinh học Mary Pat Wenderoth khuyến khích các sinh viên của mình diễn giải sâu thêm về các vấn đề bằng cách giao cho họ soạn các “bản tổng kết”. Các sinh viên được yêu cầu minh họa những hệ sinh thái khác nhau mà họ đã học trong cả tuần trong một bản tóm tắt duy nhất và mô tả cách thức các hệ thống đó tương tác với nhau thông qua các biểu đồ và từ khóa. Đó là một dạng thức diễn giải và tái tạo kiến thức một cách công phu mà nhờ đó người học có thể tìm tòi thêm các lớp nghĩa cũng như tiếp thu các khái niệm, cấu trúc và mối liên hệ tương tác một cách tốt hơn. Những sinh viên không có cơ hội tham gia lớp học của giáo sư Wenderoth cũng có thể tự mình áp dụng phương pháp này. Sự kiến tạo giúp tư duy người học trở nên nhạy bén hơn với tri thức mới. Thế nào là kiến tạo? Đó là nỗ lực trả lời một câu hỏi hay giải quyết một vấn đề trước khi được đưa chỉ dẫn đáp án hay giải pháp. Ví dụ: Xét trong một giới hạn nhỏ hẹp, bài tập điền từ còn thiếu vào một đoạn văn (tức là bạn phải tự mình khám phá ra từ đó chứ không phải được cung cấp bởi tác giả) khiến bạn nắm bắt và ghi nhớ văn bản đó tốt hơn là nếu bạn chỉ đơn giản đọc nó ở dạng hoàn chỉnh. Nhiều người nhận thấy phương pháp hiệu quả nhất dành cho họ là học tập dựa trên kinh nghiệm, hay tiếp thu tri thức thông qua thực tiễn hành động chứ không phải là nhờ đọc tài liệu hay nghe giảng. Học tập dựa trên kinh nghiệm là một dạng kiến tạo: bạn bắt đầu giải một bài tập, bạn vấp phải một vấn đề, và bạn cố gắng giải quyết nó bằng chính sức sáng tạo cũng như kiến thức sẵn có của mình. Bạn tìm kiếm đáp án từ các chuyên gia, trong các tài liệu, hay trên
  2. mạng Internet. Trước tiên bạn phải hăng hái bắt tay vào giải đáp vấn đề. Bạn sẽ không thể nắm bắt và ghi nhớ giải pháp tốt như thế nếu như một ai đó ngồi xuống hướng dẫn bạn trả lời nó trước khi bạn kịp động não suy nghĩ. Bonnie Blodgett, một nhà văn và chuyên gia làm vườn từng đoạt nhiều giải thưởng, đã mang tới cho chúng ta một minh chứng hùng hồn về khả năng học tập nhờ sự sáng tạo trong chương 4. Khi nghiên cứu một tài liệu được giao trên lớp, bạn có thể rèn luyện khả năng kiến tạo của mình bằng cách cố gắng diễn giải trước những ý chính có thể tìm thấy trong tài liệu đó và chúng có liên hệ gì với những kiến thức bạn đã biết. Sau đó bạn mới đọc tài liệu để xem ý tưởng của mình có chuẩn xác không. Kết quả của những nỗ lực ban đầu này là bạn sẽ trở nên nhanh nhạy hơn nhiều trong việc tổng kết nội dung đại ý và tính liên quan của tài liệu ngay cả khi nó khác xa so với những gì bạn đã dự liệu. Nếu bạn đang học cách áp dụng những cách giải khác nhau cho những dạng bài tập khác nhau trong một khóa nghiên cứu về khoa học hay toán học, hãy thử cố gắng giải chúng trước khi bạn tới lớp. Giờ đây Khoa Vật lý tại trường Đại học Washington ở St. Louis yêu cầu các sinh viên phải hoàn tất các bài tập trước giờ lên lớp. Một số sinh viên lấy làm phật ý và lên tiếng rằng hướng dẫn các giải pháp là nhiệm vụ của giảng viên, nhưng các giáo viên đều hiểu rằng khi sinh viên tự mình vật lộn với tài liệu trước khi lên lớp, tác dụng của những giờ học trên lớp sẽ mạnh mẽ hơn nhiều. Suy ngẫm là một dạng luyện tập kết hợp giữa khả năng hồi tưởng và diễn giải nhằm giúp người học nhận thức được các lớp ý nghĩa sâu hơn của tài liệu và củng cố các kỹ năng vững chắc hơn. Thế nào là suy ngẫm? Khi bạn dành ra vài phút để xem xét lại những kiến thức mới học trên lớp hay những kinh nghiệm vừa trải qua và tự đặt ra cho mình những câu hỏi thì bạn đang thực hiện hành vi suy ngẫm. Bạn đã hoàn thành tốt phần nào? Phần nào bạn đã có thể làm tốt hơn? Nó gợi nhắc bạn về những kiến thức hay kỹ năng nào khác? Bạn cần nghiên cứu thêm kiến thức gì để có thể hiểu thấu đáo hơn về tài liệu, hay lần tới bạn nên sử dụng chiến lược nào để đạt được kết quả tốt hơn? Ví dụ: Hàng tuần giáo sư sinh học Mary Pat Wenderoth đều giao cho sinh viên làm các bài tập với hệ số điểm học phần thấp, trong đó bà yêu cầu họ viết các “đoạn văn phản ánh thành quả học tập” nhằm thể hiện những kiến thức họ đã góp nhặt được trong cả tuần vừa qua và những kiến thức đó có liên hệ như thế nào với cuộc sống bên ngoài lớp học. Đó là một mô hình lý tưởng cho các sinh viên tự học cũng như một phương pháp học tập giúp họ phát huy năng
  3. suất cao hơn nhiều so với việc dành hàng giờ chép lại nguyên văn những trang thuyết trình hay những ghi chú về bài giảng trên lớp vào một cuốn sổ tay. Kiểm định là việc bạn đối chiếu những gì bạn nghĩ về điều mình biết và không biết với những phản hồi khách quan, nhờ đó bạn có thể tránh khỏi những ảo tưởng về năng lực của mình, điều mà nhiều người học vô tình mắc phải trong quá trình kiểm tra. Thế nào là kiểm định? Ảo tưởng là khó tránh khỏi với tất cả mọi người. Một vài dạng nhận thức sai lầm này đã được đề cập đến trong chương 5. Ví dụ như bạn có thể đọc văn bản một cách lưu loát và bạn lầm tưởng rằng mình đã nắm bắt được nội dung nền tảng của nó. Sự kiểm chứng thuần túy ám chỉ hành vi sử dụng một công cụ khách quan để xóa tan mọi ý tưởng sai lầm và điều chỉnh những đánh giá của mình theo hướng phản ánh chuẩn xác sự thực khách quan hơn. Nhờ đó bạn có thể chắc chắn rằng mình đã ý thức đúng đắn về hiểu biết và khả năng của mình. Ví dụ: Những phi công sử dụng các thiết bị hàng không để biết được khi nào các cơ quan cảm giác của họ đang làm họ nhận thức sai lệch về các yếu tố quan trọng, như trạng thái cân bằng của máy bay chẳng hạn. Các sinh viên tiến hành các bài kiểm tra hay bài tập để xem liệu họ có hiểu biết nhiều như họ vẫn nghĩ không. Ở đây chúng ta nên làm rõ tầm quan trọng của việc trả lời những câu hỏi trong các bài kiểm tra bạn tự đặt ra cho mình. Chúng ta hay nhìn vào một câu hỏi trong bài luyện tập và tự nhủ: Phải, mình biết câu này, rồi tiếp tục chuyển xuống phần cuối trang mà không hề bỏ ra chút công sức nào để viết lại đáp án cho câu hỏi đó. Nếu bạn không đưa ra câu trả lời, có thể bạn sẽ rơi vào ảo tưởng về trình độ của mình, trong khi kỳ thực bạn sẽ gặp khó khăn trong việc cung cấp một đáp án chính xác và hoàn chỉnh. Hãy làm những bài ôn tập như thể bạn đang tham dự một kỳ sát hạch, kiểm tra lại các đáp án, và tập trung nỗ lực vào cải thiện những lĩnh vực mà trình độ của bạn còn chưa đạt tiêu chuẩn. Thuật nhớ giúp bạn khôi phục lại các kiến thức đã học và ghi nhớ bất kỳ thông tin nào bạn muốn (chương 7). Thuật nhớ là gì? “Thuật nhớ” (Mnemonic) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là trí nhớ. Chúng không khác gì các tủ hồ sơ, mang đến cho bạn những phương thức thuận tiện để lưu trữ các thông tin và nhớ lại chúng mỗi khi cần đến. Chúng tôi xin đưa ra ở đây ví dụ về một thuật nhớ mà các em học sinh đã được dạy để ghi nhớ Ngũ Đại Hồ (US Great Lakes – năm hồ lớn gần biên giới nước Mỹ) theo thứ tự từ đông
  4. sang tây trên bản đồ địa lý: Old Elephants Have Musty Skin – Những chú voi già với lớp da mốc meo (cách viết tắt các chữ cái đầu OEHMS đại diện cho tên năm hồ lớn Ontario, Erie, Huron, Michigan và Superior). Mark Twain sử dụng thuật nhớ để dạy các con về các vị vua và nữ hoàng Anh bằng cách gắn thứ tự và độ dài từng triều đại vào các cột mốc trên con đường quanh co dẫn vào khu đất của ông cũng như diễn giải một cách tỉ mỉ bằng những câu chuyện và hình ảnh trong lúc đang đi bộ cùng chúng. Các sinh viên khoa tâm lý học ở trường Cao đẳng Bellerbys tại Oxford sử dụng một loại thuật nhớ có tên Cung điện Ký ức để sắp xếp những kiến thức họ đã học được và phải giải nghĩa trong các bài kiểm tra trình độ A theo hình thức viết luận. Thuật nhớ không chỉ là công cụ phục vụ mục đích tiếp thu tri thức mà còn mang đến phương pháp xây dựng mô hình tư duy nhằm giúp bạn nhớ lại chúng một cách dễ dàng hơn. Sau đây là câu chuyện về hai sinh viên đã vươn lên dẫn đầu trong lớp nhờ sử dụng các chiến lược này. Michael Young, Sinh viên Y khoa Michael Young là một sinh viên Y khoa ưu tú đang học năm thứ tư tại trường Đại học Georgia Regents. Từ vị trí cuối lớp, anh đã thay đổi phương pháp học tập của mình và vươn lên dẫn đầu. Young bước vào trường Y khi chưa hề có nền tảng gì cho môn học. Các bạn học của anh đều đã được trang bị những kiến thức về sinh hóa, dược lý và những môn học tương tự. Trường Y là một môi trường học tập nghiêm khắc với mọi sinh viên, và trong trường hợp của Young, nó càng trở nên khó khăn hơn vì anh thiếu mất một nền tảng vững chắc. Những thử thách trước mắt anh rõ ràng ngày càng khó khăn hơn. Mặc cho anh đã dành từng phút rảnh rỗi để học tất cả các kiến thức của môn học, anh vẫn chỉ đạt 65 điểm trong bài thi đầu tiên. “Thú thật tôi đã nản chí,” anh nói. “Tôi đã bị đánh bại. Tôi không thể tin được rằng nó lại có thể khó khăn đến như thế. Nó không giống với bất kỳ một khóa học nào tôi từng tham dự trước đó. Ý tôi là, bạn đến lớp, và trung bình một ngày bạn phải học 400 slide dày đặc những thông tin.” Young nhận thấy dành nhiều thời gian hơn vào việc học cũng không phải là một giải pháp nên anh đã nghiên cứu ra một cách thức khiến việc tiếp thu trở nên hiệu quả hơn. Anh bắt đầu đọc các công trình nghiên cứu về quá trình học tập và đặc biệt hứng thú với tác dụng của các bài kiểm tra. Đó là lý do chúng tôi biết đến anh: anh gửi cho chúng tôi các
  5. email trình bày thắc mắc của mình về cách ứng dụng phương pháp ôn tập có tính gợi nhớ và ngắt quãng trong môi trường học tập tại trường Y. Nhìn lại quãng thời gian đầy áp lực đó, Young nói: “Điều tôi muốn không chỉ là ý kiến của người khác về phương pháp học tập. Mọi người đều có ý kiến riêng của mình. Tôi muốn có những số liệu, nghiên cứu thực tế về vấn đề này.” Có thể bạn sẽ băn khoăn anh đã làm thế nào để đỗ vào trường Y mà không học các môn học nền tảng. Anh đã có bằng Thạc sĩ Tâm lý học và có kinh nghiệm trong môi trường thực tế, chính xác là một nhà tư vấn cai nghiện. Anh làm việc với nhiều bác sĩ, và thường tự hỏi liệu mình có muốn trở thành một bác sĩ không. Anh đã bỏ lỡ điều gì trong sự nghiệp của mình chăng? “Tôi không nghĩ mình là một người đặc biệt thông minh, nhưng tôi muốn làm nhiều điều hơn trong cuộc sống của mình. Và tôi không thể nào dứt khỏi ý nghĩ đó.” Một ngày anh đến khoa Sinh học tại Đại học Columbus, Georgia nơi anh sống. Tại đây anh đã hỏi thông tin về những khóa học anh cần tham dự để trở thành một bác sĩ. Họ đã cười nhạo anh. Họ nói: “Không ai tốt nghiệp trường này có thể trở thành bác sĩ. Những người học tại trường Y đều bắt đầu từ trường Đại học Georgia hay trường Công nghệ Georgia. Đã một thập kỷ rồi chúng tôi chưa từng có sinh viên nào thi đỗ vào trường Y.’” Không hề nản chí, Young đăng ký học các khóa học bổ sung. Chẳng hạn, để đáp ứng yêu cầu của bộ môn sinh học, anh đăng ký một lớp học về ngư nghiệp. Cứ như vậy, chỉ trong một năm, anh đã học được các kiến thức y học nền tảng. Anh dành một tháng ôn luyện cho kỳ thi đầu vào của đại học Y và xoay xở để có vừa đủ số điểm trúng tuyển. Cuối cùng, anh cũng đã trở thành sinh viên trường Georgia Regents. Vào lúc đó anh tự thấy mình còn lâu mới có thể vượt qua được quãng thời gian gay go này. Bài kiểm tra đầu tiên của anh đã chỉ ra một điều quá rõ ràng rằng trước mắt anh là một con dốc dựng đứng. Nếu như anh muốn vượt qua nó thì anh cần phải thay đổi thói quen học tập của mình. Vậy anh đã thay đổi điều gì? Anh giải thích: “Tôi từng rất ham đọc sách, nhưng đó không phải là tất cả những gì tôi biết về phương pháp học tập. Tôi thường không biết làm gì khác với tài liệu ngoại trừ việc đọc nó. Do đó nếu tôi không thể ghi nhớ kiến thức sau khi đọc xong tài liệu thì tôi cũng không biết làm thế nào để khắc phục. Điều tôi học được từ việc đọc những nghiên cứu về quá trình học hỏi là bạn cần hành động chứ không chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động. Tất nhiên, mấu chốt vấn đề là tìm ra cách để khôi phục thông tin từ trong trí nhớ, vì đó chính là điều bạn phải làm trong một bài kiểm tra. Nếu bạn không thể nhớ lại kiến thức trong lúc ôn tập thì bạn càng khó có thể nhớ được chúng giữa một kỳ thi.”
  6. Anh quan tâm tới vấn đề đó nhiều hơn mỗi khi học tập. “Tôi thường dừng lại và tự hỏi: ‘Thôi được, tôi vừa đọc được gì? Nó nói về điều gì?’ Tôi trăn trở về nó. ‘Phải, tôi tin rằng nó xảy ra như sau: enzyme hoạt động như thế này, rồi nó hoạt động như thế kia.’ Và rồi tôi quay lại kiểm tra xem mọi thứ vẫn chuẩn xác hay mình đã đi lạc hướng.” Quá trình này không diễn ra một cách dễ dàng hay tự nhiên. “Ban đầu nó khiến bạn cảm thấy bất tiện. Nếu bạn ngừng đọc và ôn lại những gì mình vừa học được rồi tự kiểm tra lại, bạn sẽ tốn nhiều thời gian hơn. Nếu bạn có một bài kiểm tra trong một tuần nữa và còn quá nhiều thứ phải học, sự trì hoãn này sẽ khiến bạn lo lắng.” Nhưng cách duy nhất để có thể học được nhiều hơn mà anh từng biết trước đó, cũng chính là thói quen dành hàng giờ đọc đi đọc lại tài liệu mà anh đã tự tập cho mình, lại không hề mang lại kết quả mà anh mong muốn. Một cách khó khăn, anh tự bắt mình duy trì quá trình luyện tập có tính gợi nhớ đủ lâu để có thể kiểm chứng xem liệu phương pháp này có hiệu quả hay không. “Trở ngại lớn nhất đối với tôi là làm cho chính bản thân mình đặt niềm tin vào quá trình đó. Và cuối cùng nó đã mang lại cho tôi những thành quả như mong đợi.” Thực tế đã diễn ra tốt đẹp. Trước khi Young bước sang năm học thứ hai, anh đã nâng thứ hạng của mình lên từ vị trí cuối cùng trong một lớp học 200 sinh viên lên top đầu, và tiếp tục duy trì thứ hạng đó cho đến tận bây giờ. Young kể với chúng tôi về cách anh điều chỉnh những nguyên tắc rèn luyện trí nhớ có tính ngắt quãng sao cho chúng thích nghi với môi trường học tập tại trường Y, nơi mà những thử thách không chỉ đến từ một khối lượng tài liệu khổng lồ cần được ghi nhớ mà còn là cách thức hoạt động và tương tác lẫn nhau của các hệ thống và cơ quan phức tạp. Anh đưa ra những bình luận được minh họa đầy sống động. Bạn cần quyết định đâu mới là điểm mấu chốt: “Nếu đó là tài liệu về bài giảng và bạn có 400 slide phải học, bạn sẽ không có thời gian để ôn lại từng chi tiết nhỏ. Bởi vậy bạn phải nói: ‘Thôi được, cái này thì quan trọng, và cái này thì không.’ Tất cả những gì tôi làm ở trường Y là học cách quản lý thời gian.” Bạn nên tự đặt cho mình những câu hỏi: “Khi bạn quay lại và xem xét vấn đề, thay vì chỉ đọc lại, bạn cần phải ý thức được liệu mình có thể nhớ lại kiến thức hay không. Liệu tôi có còn nhớ nội dung của tài liệu? Bạn luôn tự kiểm tra mình đầu tiên. Và nếu như bạn không nhớ được thì đó mới là lúc bạn quay lại để đọc nó thêm một lần nữa rồi bắt đầu lại quy trình.”
  7. Hãy học cách xác định khoảng thời gian ngắt quãng phù hợp giữa các lần ôn tập: “Tôi ý thức được tác dụng của những quãng nghỉ, và tôi cũng biết khoảng thời gian trước khi ôn lại càng dài thì trí nhớ của bạn về kiến thức đó càng được rèn luyện tốt hơn, nhưng đánh đổi lại chính là mức độ thành công khi bạn cố gắng nhớ lại chúng. Chẳng hạn, trong trường hợp bạn có mười enzyme với những cái tên khá dài và quy trình hoạt động theo từng bước của chúng, có thể sau khi đọc hết mười bước trong tiến trình hoạt động của một enzyme bất kỳ, bạn cần dừng lại và nghĩ, liệu mình có thể nhớ lại mười bước đó là gì không? Khi tôi khám phá ra một chiến lược hiệu quả với khoảng cách thời gian hợp lý giữa các lần ôn tập và bắt đầu nhận thấy những kết quả đều đặn, việc tuân thủ chiến lược đó trở nên dễ dàng hơn vì khi đó tôi tin rằng phương pháp luyện tập của mình sẽ hoạt động tốt.” Học chậm lại để có thể tìm ra ý nghĩa bên trong tài liệu: Young đọc tài liệu một cách chậm rãi hơn, nghiền ngẫm nội dung và diễn giải các ý tưởng bằng ngôn ngữ của chính mình để nhận thức vấn đề một cách thấu đáo và khắc ghi nó vào trí nhớ. “Khi tôi đọc được rằng dopamine (một loại chất dẫn truyền xung động thần kinh) được sản sinh ra từ một khu vực trong não bộ đảm trách các xúc cảm hưng phấn khi tác động đến các cơ quan vùng bụng, tôi thực sự không hiểu nhiều về nó cho lắm.” Những từ ngữ mô tả khái niệm này cứ thế “trôi tuột qua đầu bạn”. Để nắm bắt ý nghĩa của khái niệm về dopamine, anh nghiên cứu sâu hơn, tìm hiểu về cấu trúc bên trong não bộ và hình dung chúng bằng những hình ảnh sống động trong đầu như thể đang chụp lại chúng bằng chính ống kính não bộ của mình vậy. “Chỉ cần hình dung ra hình dạng cũng như vị trí của dopamine [dựa trên phạm trù giải phẫu học] là tôi thực sự có thể ghi nhớ được kiến thức về nó.” Anh nói chúng ta không đủ thời gian để tiếp thu tất cả kiến thức về mọi khái niệm, nhưng ngừng lại để xem xét ý nghĩa của chúng sẽ giúp chúng ta ghi nhớ khái niệm tốt hơn. Giáo viên và bạn học của Young đều nhận thấy sự tiến bộ đầy ấn tượng của anh. Anh đã được mời đến để phụ đạo cho những sinh viên còn đang chật vật trong việc tiếp thu, một phần thưởng xứng đáng cho sự cố gắng của anh. Anh đã truyền lại phương pháp này cho họ, và họ đã cải thiện được thứ hạng của mình. “Điều khiến tôi quan tâm là mọi người đều hứng thú. Tôi cũng nói với các bạn học của mình tại trường Y về phương pháp này và giờ đây họ thực sự say mê nó. Mọi người đều muốn biết làm thế nào để học tốt hơn.” Timothy Fellows, sinh viên khóa Tâm lý học đại cương Stephen Madigan, giảng viên Đại học Nam California, kinh ngạc bởi kết quả 100 điểm của
  8. một sinh viên tham gia khóa học Tâm lý học. “Đó là một khóa học đầy khắc nghiệt,” Madigan cho biết. “Tôi sử dụng những giáo trình nâng cao tương đối khó và các sinh viên học tài liệu một mạch trong suốt khóa học. Khi khóa học kéo dài được ba phần tư, tôi để ý thấy một sinh viên tên Timothy Fellows đã đạt khoảng 90 đến 95 điểm cho toàn bộ các hoạt động trên lớp – các bài kiểm tra, bài luận, các câu hỏi yêu cầu đáp án ngắn gọn, câu hỏi trắc nghiệm. Đó thực sự là một số điểm đầy ấn tượng. Có nhiều sinh viên đã làm tốt – nhưng cậu sinh viên này thực sự là một ngoại lệ. Và một ngày kia tôi gặp riêng cậu ta và hỏi: “Em có thể cho tôi biết vài điều về thói quen học tập của em không?” Đó là vào năm 2005. Madigan không hề biết gì về những gì Fellows làm ngoài phạm vi lớp học, nhưng qua quan sát cuộc sống bên trong trường đại học và sự thể hiện của cậu trong các trận đấu bóng cũng đủ để ông thấy rằng ngoài việc học tập, cậu còn có một cuộc sống thực sự khác. “Tâm lý học không phải chuyên ngành của Timothy, nhưng đó là môn học cậu quan tâm và dồn mọi kỹ năng vào để nắm bắt.” Cho đến tận bây giờ Madigan vẫn giữ danh sách về những thói quen trong học tập mà Fellows đã liệt kê một cách vắn tắt và chia sẻ nó với những sinh viên mới. Dưới đây là một trong số những điểm nổi bật: Luôn đọc tài liệu trước bài giảng của giáo viên. Xem xét trước những câu hỏi và đáp án có thể cho bài kiểm tra ngay từ khi đang đọc tài liệu. Trả lời thầm những câu hỏi trong đầu khi nghe giáo viên giảng bài để kiểm tra xem mình có thể nhớ được những kiến thức gì trong tài liệu đã đọc trước. Xem xét những chỉ dẫn về tài liệu học tập, tìm ra những thuật ngữ mình không thể nhớ ra hoặc chưa hiểu hết, và nghiên cứu lại chúng. Chép lại những thuật ngữ chủ chốt và định nghĩa của chúng vào sổ tay và chắc chắn rằng mình đã hiểu chúng. Làm các bài tập thực hành được cung cấp trực tuyến bởi giáo viên; từ đó phát hiện ra những khái niệm nào chưa tiếp thu được và tập trung nghiên cứu chúng. Sắp xếp lại những thông tin được cung cấp trong suốt khóa học vào một hệ thống chỉ dẫn học tập do chính mình thiết kế. Viết lại các khái niệm chi tiết hoặc quan trọng, gắn chúng lên đầu giường và thường xuyên tự kiểm tra xem mình có thuộc chúng không. Tạo một khoảng cách hợp lý giữa những lần ôn tập và thực hành trong suốt khóa học. Những thói quen học tập của Fellows là một ví dụ hay về phương pháp học tập hiệu quả và
  9. làm thế nào để duy trì nó, nhờ đó mà quá trình ôn tập được ngắt quãng và kiến thức được củng cố một cách vững chắc trong trí nhớ khi bước vào kỳ thi. NHỮNG LỜI KHUYÊN DÀNH CHO CÁC HỌC VIÊN THEO ĐUỔI SỰ NGHIỆP HỌC TẬP SUỐT ĐỜI Những chiến lược học hỏi dành cho các sinh viên chúng tôi vừa tóm tắt cũng hữu ích cho mọi người học ở mọi độ tuổi. Nhưng chúng mới chỉ xoay quanh những hướng dẫn áp dụng cho mô hình trường lớp. Những cá nhân coi học hỏi là sự nghiệp cả đời đang sử dụng những nguyên tắc tương tự trong những mô hình đa dạng và ít tính sư phạm hơn nhiều. Tất nhiên theo một nghĩa nào đó tất cả chúng ta đều không ngừng học tập. Từ khi sinh ra chúng ta đã bắt đầu thu thập hiểu biết về thế giới xung quanh thông qua những thí nghiệm thử và sai. Chúng ta cũng học được nhiều từ việc đối mặt với thử thách, những điều đòi hỏi chúng ta nhớ lại những gì đã làm khi gặp phải một tình huống như vậy trong quá khứ. Nói cách khác, những phương pháp kiến tạo, ôn tập khả năng gợi nhớ và những kỹ thuật tương tự như những gì chúng tôi trình bày trong cuốn sách này là nền tảng cơ bản (ngay cả khi chúng có đi ngược lại với trực giác của bạn) và cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người chỉ vừa mới khám phá ra tác dụng của chúng trên hành trình theo đuổi đam mê và sự nghiệp của mình, một hành trình đòi hỏi những nỗ lực học tập không ngừng nghỉ. Phương pháp luyện tập có tính gợi nhớ Nathaniel Fuller là một diễn viên chuyên nghiệp tại nhà hát Guthrie ở Minneapolis. Anh đã thu hút được sự chú ý của chúng tôi sau một buổi tiệc tối. Tại đây, Joe Dowling, vị đạo diễn nghệ thuật lừng danh của Guthrie đã đề nghị chúng tôi phỏng vấn Fuller ngay sau khi nghe về công trình nghiên cứu của chúng tôi. Dường như Fuller có khả năng ghi nhớ mọi lời thoại và cử động của một vai diễn mà anh phải đóng thế chính xác đến mức anh có thể bước lên sân khấu vào những phút cuối cùng mà vẫn đạt được thành công vang dội. Tuy nhiên đó hoàn toàn không phải là kết quả quá trình học hỏi hay diễn tập vai diễn đó theo một cách thông thường. Fuller là một diễn viên cực kỳ chuyên nghiệp trên sân khấu. Anh đã trau dồi kỹ thuật của mình từ việc học các vai diễn trong nhiều năm. Anh thường được phân các vai chính; thời gian còn lại anh có thể nhận vài vai diễn ít quan trọng hơn trong khi đồng thời vẫn đảm nhiệm vai trò đóng thế vai chính. Anh đã thực hiện điều đó như thế nào?
  10. Khi bắt đầu đọc một kịch bản mới, Fuller đặt nó vào giữa một tấm bìa sách, nghiền ngẫm nó và đánh dấu tất cả dòng thoại của mình. “Tôi xác định số lượng lời thoại phải học. Tôi cố gắng ước lượng xem mình có thể học được bao nhiêu trong một ngày, và sau đó tôi bắt đầu từ sớm đủ để tiếp thu được hết.” Đánh dấu những dòng thoại của mình cũng giúp anh dễ nhìn thấy chúng hơn cũng như nhận thức được kết cấu của vở kịch. Do đó cách sử dụng phương pháp đánh dấu này tương đối khác với những gì các sinh viên vẫn làm trong các buổi học trên lớp. Họ chỉ đánh dấu vì mục đích đọc lại một cách thuần túy. “Bạn nắm bắt được hình thức của lời thoại, cũng như trạng thái cảm xúc lên xuống của nhân vật.” Fuller áp dụng phương pháp rèn luyện có tính gợi nhớ theo nhiều dạng thức phong phú. Đầu tiên, anh lấy một tờ giấy trắng và che lên một trang kịch bản. Anh kéo nó xuống, âm thầm diễn tả những lời thoại của những nhân vật mình đóng cùng lên, vì những lời thoại này sẽ gợi ý cho lời thoại của nhân vật do anh đóng và xúc cảm trong chúng được phản ánh bởi nhân vật của anh bằng cách này hay cách khác. Anh che lời thoại của mình đi và cố gắng nhớ lại để đọc to chúng lên. Anh kiểm tra độ chính xác của mình, nếu anh đọc sai lời thoại nào, anh sẽ lại che nó đi và đọc to lên lần nữa. Khi anh đã có thể đọc nó lên một cách chính xác, anh lại mở đoạn sau và tiếp tục. “Bạn hiểu về vai diễn của mình không chỉ có nghĩa là bạn biết phải nói gì, mà quan trọng là bạn phải biết khi nào nên nói. Tôi không có năng lực trí tuệ đặc biệt gì về ghi nhớ, nhưng một trong số những bí quyết tôi đã phát hiện ra là tôi cần cố gắng hết sức để có thể đọc lời thoại lên mà không cần phải nhìn vào kịch bản. Tôi hết sức nỗ lực để buộc mình phải ghi nhớ nó.” “Tôi sẽ làm việc như điên. Tôi chỉ dừng lại khi cảm nhận được khả năng của mình đang bắt đầu suy giảm. Rồi ngày hôm sau tôi quay trở lại và tôi không thể nhớ ra nó. Rất nhiều người bạn của tôi hoảng hốt khi lâm vào tình huống này. Tôi chỉ có một niềm tin rằng giờ đây điều tôi cần tiếp thu đã có chỗ trong trí óc tôi và lần tới tôi sẽ nhớ ra nó dễ dàng hơn một chút. Sau đó tôi lại tiếp tục với một đoạn mới cho đến khi hết vở kịch.” Trong quá trình nghiên cứu kịch bản, anh không ngừng chuyển từ những trang thoại và bối cảnh quen thuộc sang những trang mới hơn, vở kịch được hình thành tựa như cách những sợi chỉ dần dần dệt nên một tấm thảm, cảnh trước hé mở ý nghĩa cho cảnh sau và đến lượt cảnh sau lại tiếp tục đi sâu vào câu chuyện. Đến đoạn kết, anh tập theo trình tự ngược lại, chuyển từ cảnh cuối cùng ít quen thuộc nhất sang những cảnh quen thuộc hơn trước đó, và cứ thế anh đi đến hết đoạn cuối cùng thêm một lần nữa. Sau đó, anh chuyển tới phần trước của những cảnh này và tập lại cho đến hết. Anh tiếp tục luyện tập theo cách này cho đến khi quay trở lại phần đầu của toàn vở kịch. Việc tập dượt đi tới đi lui này giúp anh liên kết những phần anh chưa thuộc với những phần anh thuộc hơn, làm anh hiểu thấu đáo hơn về toàn bộ vai diễn của mình.
  11. Nắm bắt vai diễn là học thuộc lòng lời thoại (theo đúng như những gì được trình bày trong kịch bản), nhưng, anh nói, đó còn là “một động tác của cơ thể, một cử động của cơ bắp, bởi vậy tôi đang cố gắng đọc lời thoại với tư cách của nhân vật để có thể hiểu được cảm nhận của nhân vật.” Fuller kiểm tra ngôn ngữ của kịch bản, bố cục của ngôn từ, và ngữ điệu cần thiết để diễn tả ý nghĩa. Anh cố gắng cư xử như thể mình chính là nhân vật, những bước di chuyển qua sân khấu, những biểu hiện trên khuôn mặt – tất cả những khía cạnh đó sẽ bộc lộ những cảm xúc chủ đạo làm nền tảng cho mỗi cảnh trong vở kịch. Những hình thức diễn giải kỹ lưỡng như trên giúp anh phát triển khả năng tiếp cận xúc cảm của vai diễn cũng như thiết lập mối liên hệ sâu sắc hơn với nhân vật. Anh cũng thực hiện thành công phương pháp luyện tập có tính gợi nhớ. Giờ đây, thay vì ghi âm lại lời thoại của mình theo kịch bản đã viết sẵn, anh đọc lời thoại của mọi diễn viên khác trong vở kịch một cách diễn cảm nhất có thể theo như những gì anh hiểu về các nhân vật đó và ghi lại vào một máy ghi âm cầm tay kỹ thuật số. Anh nắm chặt chiếc máy ghi âm trong lòng bàn tay. Ngón tay cái của anh biết đúng vị trí các nút điều khiển. Ngón tay anh nhấn nút “play”, và Fuller lắng nghe lời thoại của các nhân vật, cũng là những gợi ý cho anh; anh nhấn nút “dừng”, rồi anh nhớ lại lời thoại của mình và đọc lên. Nếu còn chưa tin tưởng vào độ chính xác, anh kiểm tra lại kịch bản, chơi lại đoạn đó nếu cần thiết, đọc lại lời thoại, rồi lại tiếp tục với lớp kịch bản tiếp theo. Khi anh đóng thế một vai diễn khác, trước khi đạo diễn đưa ra bảng phân vai và chi tiết các phối cảnh (các diễn viên di chuyển trong sự phối hợp với một diễn viên khác và với cả nhóm), Fuller diễn tập ở nhà, tưởng tượng phòng khách nhà mình chính là sân khấu với các phối cảnh được bố trí trong đó. Tại đây, trong lúc tập các lớp kịch bản cùng chiếc máy ghi âm của mình bằng cách nghe lời thoại của các nhân vật khác và đọc lời thoại của chính mình, anh di chuyển xuyên qua những bối cảnh sân khấu trong tưởng tượng, bổ sung thêm các động tác cơ thể, phản ứng lại với các tác nhân không có thực. Khi diễn viên mà Fuller đóng thế diễn tập, anh quan sát từ đằng sau những dãy ghế phía cuối khán phòng, tự mình đọc lời thoại và di chuyển trong phối cảnh đúng như cách các diễn viên kia đang diễn tập trên sân khấu. Sau đó anh tiếp tục ôn lại vai diễn tại nhà, điều chỉnh sân khấu tưởng tượng trong phòng khách nhà mình theo phối cảnh vừa được xây dựng. Phương pháp tiếp thu của Fuller kết hợp nhuần nhuyễn nhiều dạng thức: các bài tập có tính gợi nhớ, ngắt quãng, đan xen nhiều nội dung kiến thức, kiến tạo (thế giới nội tâm nhân vật, động tác di chuyển, động cơ, phong cách và khí chất) và diễn giải kỳ công. Thông qua những phương pháp này, anh lĩnh hội được nhiều lớp nghĩa diễn xuất thành công, nhờ thế mà màn trình diễn của anh trở nên sống động với chính bản thân anh cũng như khán giả.
  12. Kiến tạo Năm 2013, John McPhee có một bài viết về những chướng ngại trên hành trình sáng tạo được đăng trên thời báo Người New York. Ở tuổi 82, McPhee đưa ra những nhận định của mình dựa trên những lợi thế từ địa vị cao trong xã hội và một sự nghiệp chói lọi với nhiều giải thưởng. Ông cũng được công nhận là người tiên phong trong lĩnh vực sáng tạo những tác phẩm dựa trên những câu chuyện người thật việc thật. Những chướng ngại trong quá trình sáng tạo là rào cản tưởng như không thể khắc phục mà một tác giả phải vượt qua nếu như anh ta còn ôm ấp bất kỳ một hy vọng nào về việc theo đuổi đề tài của mình. Sáng tác văn học, cũng giống như mọi hình thức nghệ thuật khác, là một quá trình lặp đi lặp lại của sự sáng tạo và khám phá. Nhiều người mong muốn trở thành nhà văn đã thất bại trên hành trình tìm ra tiếng nói của mình vì một sự thật đơn giản rằng họ không thể bước tiếp cho đến khi họ thực sự hiểu điều mình muốn diễn tả. McPhee giải quyết vấn đề này như thế nào? Ông viết một bức thư gửi mẹ mình. Ông kể cho bà về nỗi khốn khổ mình đang phải chịu đựng, những hy vọng về đề tài sáng tác mình đang ấp ủ (một chú gấu), nhưng ông không hề biết phải viết về nó như thế nào, và dường như ông không được sinh ra để trở thành một nhà văn. Ông muốn làm bà nhận thức được kích cỡ khổng lồ của con gấu, cảm nhận được nó lười khủng khiếp đến mức nào khi chỉ thích ngủ 15 tiếng một ngày, “và sau đó bạn quay trở lại gạch bỏ dòng chữ “Mẹ thân yêu” cùng tất cả những đoạn than vãn rên rỉ, chỉ giữ lại những gì bạn viết về con gấu.” Bản thảo đầu tiên của McPhee “cực kỳ bộc phát”. “Rồi bạn bỏ mọi thứ sang một bên, vào trong ô tô và lái về nhà. Trên đường trí óc bạn vẫn gắn chặt với những câu chữ. Bạn nghĩ về cách tốt hơn để nói lên điều gì đó, một lối diễn đạt chuẩn xác để giải quyết một vấn đề nhất định. Không có bản nháp – hay nếu như nó không tồn tại – rõ ràng là bạn sẽ không hề nghĩ về cách cải thiện nó. Tóm lại, có thể bạn sẽ chỉ thực sự dành hai hay ba tiếng một ngày để cầm bút nhưng trí óc của bạn, bằng cách này hay cách khác đang làm việc 24 giờ một ngày – vâng, ngay cả khi bạn đang ngủ – nhưng điều đó chỉ diễn ra nếu như bạn có một bản nháp hay một phiên bản trước đó. Chỉ khi nó tồn tại, việc sáng tác mới thực sự bắt đầu.” Đây chính là điểm then chốt: McPhee viết ra những điều “cực kỳ bộc phát”, bạn tiếp thu kiến thức theo cách tương tự như thế. Những nỗ lực tìm hiểu một tài liệu xa lạ thường gây ra cho bạn cảm giác vụng về và thiếu chuẩn xác. Nhưng khi bạn ép trí óc mình cố gắng nắm bắt một điều mới mẻ, tư duy của bạn sẽ bắt đầu tự “liên kết” với vấn đề đó. Bạn không cố gắng tư duy bằng cách đọc đi đọc lại tài liệu hay thụ động nhìn vào những slide đang trình chiếu. Bạn ép trí óc mình làm việc bằng cách nỗ lực tự mình lý giải tài liệu theo cách diễn đạt riêng của mình – kết nối các chân lý, khiến chúng trở nên sống động, liên hệ chúng với những gì bạn đã biết. Học tập, cũng như sáng tác, là một hành vi nỗ lực trong sự cam kết. Vật lộn giải quyết vấn đề hóc búa khơi lên trong bạn những hạt mầm sáng tạo, định hướng trí óc bạn tìm kiếm những so sánh hay ẩn dụ từ một hoàn cảnh khác bạn đã trải qua, những kiến thức có thể được chuyển hóa hay áp dụng ở đây. Nó khiến bạn khao khát một giải pháp. Và khi bạn chạm tới giải pháp,
  13. nó sẽ hằn sâu vào trong trí nhớ của bạn cùng những tri thức và năng lực bạn đã có hơn bất kỳ điều gì mà những trang thuyết trình PowerPoint gắn lên não bạn. Vậy một suy ngẫm rút ra từ câu chuyện của McPhee: khi bạn muốn trở nên điêu luyện trong một lĩnh vực mới, hãy thôi càu nhàu và chinh phục con gấu.” Suy ngẫm Trong chương 2, chúng tôi đã kể về quá trình Mike Ebersold, nhà giải phẫu thần kinh tại bệnh viện Mayo sử dụng thói quen nghiền ngẫm để cải thiện kỹ năng trong phòng mổ của mình. Suy ngẫm bao gồm các hành vi khôi phục ký ức (Mình đã làm gì? Kết quả ra sao?) và kiến tạo một điều mới (Mình có thể làm gì để cải thiện trong lần tới?) cũng như tưởng tượng hình dung và diễn tập trong tư duy (Nếu mình thu gọn vết mổ thì sao?). Chính thói quen suy ngẫm này đã giúp ông nghĩ ra một phương pháp để xử lý kết cấu xoang tinh vi phía sau hộp sọ. Bạn không thể thắt nút vì kết cấu này sẽ bẹp và đứt khi bạn tiến hành khâu. Vince Dooley, huấn luyện viên đội bóng Georgia Bulldogs (chương 3), đã giúp các cầu thủ của mình áp dụng kỹ thuật suy ngẫm và diễn tập trong tư duy để nắm bắt các lối chơi và điều chỉnh chúng cho trận đấu vào thứ Bảy kế tiếp. David Garman, viên cảnh sát tại Minneapolis (chương 5) đã cải thiện những chiến thuật tình báo của mình nhờ suy ngẫm. Tác dụng của phương pháp học tập này được minh chứng rõ ràng trong hồi ức cá nhân có tên Highest Duty (tạm dịch: Nhiệm vụ tối cao) của Đại úy Chesley Sullengurger. “Sully” là phi công đã hạ cánh chiếc phi cơ số hiệu 1549 của Không lực Hoa Kỳ một cách thần kỳ trên sông Hudson vào năm 2009. Khi đọc tự truyện của ông, nhiều lần chúng ta nhận thấy cách ông trau dồi hiểu biết của mình về các chuyến bay và kiểm soát máy bay thông qua các khóa huấn luyện, những trải nghiệm cá nhân, và trực tiếp quan sát thao tác của những phi công khác. Quá trình này bắt đầu từ những ngày đầy tiên trong sự nghiệp khi ông còn lái chiếc máy bay một động cơ chuyên dùng rải chất hóa học phục vụ nông nghiệp, và tiếp tục cho đến lúc ông điều khiển những chiếc phi cơ chiến đấu. Ông đã nghiên cứu những thảm họa xảy đến với các máy bay thương mại, phân tích một số ví dụ về trường hợp hạ cánh của các máy bay thương mại; trong quá trình này ông đặc biệt chú ý tới các bài học về cao độ, tốc độ và thăng bằng cánh. Sự tiến bộ của Đại úy Sullenberger chỉ ra cho chúng ta thấy rằng thói quen suy ngẫm không chỉ đơn thuần là việc bạn đánh giá những trải nghiệm của bản thân hay quan sát những kinh nghiệm của người khác. Thói quen này chỉ phát huy tác dụng tối đa khi bạn gắng sức động não trong quá trình thực hiện các hành vi kiến tạo, tưởng tượng và diễn tập trong tư duy. Luyện tập công phu
  14. Khi chúng tôi gặp nhạc công piano Thelma Hunter, bà đang tập bốn bản nhạc được viết bởi Mozart, Faure, Rachmanioff và William Bolcom cho màn trình diễn giao hưởng sắp tới. Hunter, một phụ nữ 88 tuổi, đã giành giải nhất trong một cuộc thi tại New York từ lúc lên năm. Bà tiếp tục sự nghiệp biểu diễn từ đó cho tới tận bây giờ. Tuy bà luôn nhấn mạnh mình không phải là một thần đồng và cũng không đặc biệt nổi tiếng, nhưng bà thực sự là một nhạc sĩ tài năng. Bên cạnh cuộc sống bận bịu để nuôi dưỡng sáu người con và chăm sóc chồng mình, bác sĩ phẫu thuật tim Sam, Hunter luôn tìm thấy niềm vui trong việc học tập và giảng dạy không ngừng nghỉ, cũng như việc biểu diễn piano. Và bà vẫn đang duy trì điều đó, theo đuổi niềm vui sống trên những phím đàn. Việc bổ sung thêm những tầng ý nghĩa phong phú của quá trình học tập đặt trọng tâm vào những phương thức và ví dụ về Hunter cho thấy luyện tập một cách kỹ lưỡng có tác dụng tăng cường khả năng tiếp thu và ghi nhớ. Khi Hunter nghiên cứu một bản tổng phổ mới, bà luyện cho những ngón tay của mình trở nên nhuần nhuyễn về mặt cơ học, đôi tay mình trở nên thính nhạy với những âm thanh, đôi mắt mình quen thuộc với mọi nốt trên bản nhạc và trí tuệ mình nhận thức được đầy đủ về quá trình tự rèn luyện thông qua các bước chuyển. Hunter đã nhượng bộ đôi chút trước tuổi tác của mình. Bà chưa từng khởi động trước khi biểu diễn, nhưng giờ đây bà đã phải làm thế. “Khả năng của tôi không còn tốt như xưa. Giới hạn của tôi đã thu hẹp lại. Nếu như bây giờ tôi muốn nhớ lại một điều gì đó thì tôi phải nghĩ về nó. Trước kia tôi chưa bao giờ cần làm thế, tôi chỉ tiến hành tuần tự mọi thứ và ký ức về chúng sẽ xuất hiện.” Bà hình dung ra bản nhạc và để mặc trí óc mình tự thực hiện những ghi chú ngoài lề. “Đôi khi trong lúc luyện đàn tôi đọc to các nốt nhạc, ‘lên quãng tám ở đoạn này’ nhưng đồng thời mắt tôi cũng tưởng tượng ra vị trí của chúng trên bản nhạc.” Bà cũng đưa ra một số nhận định tương đồng với ý kiến của John McPhee về quá trình sáng tác văn học. Hunter chia sẻ khi bà gần như đã ghi nhớ được toàn bộ bản nhạc, “tôi đang lái xe, và tôi cùng lúc có thể nghĩ tới toàn bộ bản nhạc. Tôi suy ngẫm về hình thức của nó, như thể tôi là người chỉ huy dàn nhạc: ‘Ồ, sẽ hợp lý hơn nếu tôi chơi đoạn này nhanh hơn. Tôi phải luyện tập để chơi nó nhanh hơn.’ Đó là những suy nghĩ ở phạm vi rộng hơn, vượt xa khỏi những phím đàn.” Hunter tuân thủ chế độ luyện tập hằng ngày, tiến hành tuần tự những bản nhạc mới, chậm lại đôi chút để phân tích các đoạn khó, và sau đó kết hợp màn trình diễn của các nhạc cụ khác nhau để đồng bộ hóa chúng lại vì giờ bà thường biểu diễn cùng một nhạc công cello và một nhạc công vĩ cầm. Trong chương 7, chúng tôi đã mô tả nghiên cứu của Anders Ericsson về quá trình các chuyên gia xây đắp những thư viện lưu trữ các mô hình tư duy thông qua hàng ngàn giờ rèn
  15. luyện trong sự công phu và tập trung cao độ. Họ có thể triển khai những mô hình này để giải quyết một loạt những tình huống khác nhau mà họ phải đối mặt trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Hunter tường thuật lại những trải nghiệm của mình, những điều dường như đã minh chứng rõ ràng cho lý thuyết của Ericsson. Một lần, bà phải ngồi bên phím đàn và đặt ra một kế hoạch thao tác cho các ngón tay của mình trong các đoạn khó. Kỳ quặc thay, sau một tuần không động đến bản nhạc, bà ngồi xuống và chơi lại nó, theo một cách mà bà chưa hề định trước nhưng lại mang đến cảm giác hoàn toàn tự nhiên và quen thuộc, bà chia sẻ. Đó là một nghịch lý, cho dù không phải là chuyện hoàn toàn kinh ngạc. Bà cho rằng tiềm thức của mình, được vun đắp từ nhiều năm dài biểu diễn, có khả năng tìm ra một lối chơi uyển chuyển hơn những gì bà đã sắp đặt nhờ hóa giải nó trên bàn phím. Nhưng có thể chính sự nỗ lực luyện tập với những phím đàn, tương tự như cách McPhee vật lộn với con gấu của mình, đã định hướng cho trí óc bà tự sàng lọc những ngăn tủ ký ức của mình để tìm ra một mô hình thanh thoát, tự nhiên và thích hợp hơn với mỗi tình huống. LỜI KHUYÊN CHO NGƯỜI GIẢNG DẠY Trong phần này lại một lần nữa chúng tôi cố gắng thận trọng với tính nguyên tắc. Mọi giáo viên đều phải tìm ra phương pháp thích hợp cho lớp học của mình nhưng vẫn có một số đặc trưng rất hữu ích. Do vậy dưới đây là một số chiến lược cơ bản mà chúng tôi cho rằng sẽ giúp ích rất nhiều trong việc cải thiện khả năng tiếp thu của các sinh viên trên lớp. Đó là những bản mô tả ngắn gọn về những phương pháp tương tự mà một số giáo viên vẫn đang tiến hành. Từ những đề xuất và ví dụ đó, chúng tôi hy vọng bạn sẽ tự điều chỉnh và tìm ra cho mình những kế hoạch thực tiễn. Giải thích cho sinh viên quá trình học hỏi diễn ra như thế nào Nhiều sinh viên bị ám ảnh bởi những suy nghĩ lệch lạc và có ảo tưởng về sự tiếp thu. Chính điều này đã khiến họ đưa ra những lựa chọn sai lầm trong việc chấp nhận những rủi ro về mặt tư duy cũng như thời điểm và cách thức học tập. Vì vậy, người giảng dạy cần đảm nhiệm vai trò giải thích cho các sinh viên của mình những thực nghiệm đã đưa ra các phát hiện mới về phương pháp học tập, nhờ thế mà sinh viên có thể tự điều chỉnh quá trình rèn luyện của chính mình. Cụ thể, sinh viên cần được giúp đỡ để có thể nhận thức được những ý tưởng nền tảng dưới đây:
  16. Một số khó khăn mà người học phải đối mặt trong quá trình học tập có thể giúp họ tiếp thu tốt hơn và ghi nhớ lâu hơn. Khi kiến thức được tiếp thu một cách dễ dàng, nó thường trở nên hời hợt và có thể bị lãng quên sau một khoảng thời gian ngắn. Không phải tất cả những năng lực trí tuệ của con người đều đã được định sẵn và không thể thay đổi. Kỳ thực, khi việc tiếp thu đòi hỏi nhiều nỗ lực từ người học, nó sẽ tạo nên những biến đổi trong não bộ, thiết lập những liên kết mới và tăng cường khả năng tư duy của họ. Bạn học tốt hơn khi bạn cố xoay xở với những vấn đề mới trước khi được chỉ dẫn cách giải quyết, chứ không phải như mọi người vẫn hay suy nghĩ theo hướng ngược lại. Để đạt tới sự điêu luyện trong bất kỳ lĩnh vực nào, bạn phải gắng sức vượt lên trình độ hiện tại của chính mình. Đó là lẽ tự nhiên khi những nỗ lực thường kết thúc bằng sự thất bại, nhưng những bước lùi đó lại mang đến cho bạn thông tin thiết yếu hỗ trợ quá trình điều chỉnh các chiến lược học tập, nhờ đó, bạn có thể đạt tới trình độ uyên bác. Những chủ đề trên đã được đan cài xuyên suốt cuốn sách cũng như được thảo luận cụ thể chuyên sâu trong chương 4 và chương 7. Hướng dẫn sinh viên học tập thế nào cho hiệu quả Nhìn chung sinh viên hiếm khi nhận được chỉ dẫn về cách thức học tập, và nếu có thì thường là những lời khuyên sai lầm. Vì thế, họ đổ xô vào những hoạt động còn xa mới đạt tới sự tối ưu, như đọc lại giáo trình, ôn luyện tập trung dồn dập và nhồi nhét kiến thức. Trong phần mở đầu của chương này, chúng tôi đã trình bày những chiến lược học hỏi hiệu quả. Sinh viên sẽ gặt hái được nhiều lợi ích từ các giáo viên, những người cung cấp cho họ những hiểu biết thấu đáo về các chiến lược này và khuyến khích họ duy trì chúng đủ lâu để nhận thấy những tác dụng chúng mang lại, những điều ban đầu tưởng chừng như khá khó tin. Tạo ra những thử thách trong lớp học Áp dụng chế độ kiểm tra thường xuyên trong bất kỳ tình huống nào cho phép để giúp sinh viên củng cố kiến thức và ngăn chặn quá trình quên lãng. Thiết lập những nguyên tắc hợp lý dễ chấp nhận với các sinh viên và chính bạn. Sinh viên dễ chấp nhận các bài kiểm tra hơn khi họ có thể dự đoán được nội dung kiểm tra và chắc chắn kết quả của từng bài kiểm tra đơn lẻ
  17. không ảnh hưởng nhiều tới kết quả xếp hạng học tập của họ. Giáo viên nhận thấy việc kiểm tra hợp lý hơn khi nó được tiến hành đơn giản, nhanh chóng. (Cân nhắc cách thức tiến hành của Kathleen McDermott mà chúng tôi sẽ tường thuật trong phần dưới đây làm một ví dụ. Bà sử dụng hệ thống câu hỏi hằng ngày để kiểm tra khả năng tiếp thu và ghi nhớ của sinh viên trong các lớp đại học của mình.) Thiết kế các công cụ học tập kết hợp chặt chẽ các phương pháp rèn luyện có tính gợi nhớ, sáng tạo, và diễn giải chi tiết. Đó có thể là những bài tập đòi hỏi sinh viên phải đầu tư nhiều nỗ lực để giải quyết một dạng toán mới trước khi tới lớp, nơi mà họ được chỉ dẫn cách giải; những bài luyện mà sinh viên có thể sử dụng để ôn lại kiến thức đã học và kiểm tra lại những đánh giá của họ về những gì họ hiểu và không hiểu; những bài luận yêu cầu sinh viên phản ánh suy nghĩ của mình về tài liệu được trình bày trong bài học lần trước và liên hệ nó với những kiến thức khác hay với những lĩnh vực khác trong đời sống thường nhật của họ; những bài tập yêu cầu sinh viên đưa ra nhận định ngắn nhằm tóm tắt các ý tưởng chủ chốt trong một tài liệu học tập vừa được trình bày trong sách giáo khoa hay bài giảng trên lớp. Tính điểm của các bài kiểm tra vấn đáp hay các bài luyện vào hệ thống điểm của toàn bộ khóa học, cho dù chỉ với một hệ số rất thấp. Sinh viên tại các lớp học mà điểm của các bài luyện ảnh hưởng đến điểm của khóa học có kết quả học tập tốt hơn so với những sinh viên tại các lớp học cũng thực hiện các bài ôn luyện nhưng không ảnh hưởng đến kết quả cuối kỳ. Thiết kế hệ thống câu hỏi kiểm tra và bài tập có phạm vi bao trùm những khái niệm và kiến thức đã được trình bày trong phần trước của học kỳ, để sinh viên được gợi nhớ và tích lũy lại kiến thức thông qua quá trình luyện tập, xây dựng những mô hình tư duy phức tạp hơn, củng cố năng lực nhận thức, và trau dồi vốn hiểu biết về mối quan hệ giữa các quan niệm hay hệ thống kiến thức. (Tìm đọc trong chương 2 ví dụ về cách thức Andy Sobel áp dụng vào những bài kiểm tra tích lũy với hệ số điểm thấp trong các khóa học Kinh tế chính trị trình độ Đại học của mình.) Tạo khoảng cách thời gian hợp lý, đan xen và đa dạng hóa các đề tài và dạng thức bài tập được giới thiệu trên lớp để sinh viên có thể rèn luyện khả năng thay đổi các phương pháp một cách thường xuyên mỗi khi họ phải “tải lại” những kiến thức đã biết về mỗi đề tài và nhận ra tài liệu mới có mối liên hệ hay sự khác biệt gì với chúng. Công khai minh bạch
  18. Giúp sinh viên của bạn hiểu bạn đã kết hợp những trở ngại vào trong những bài học như thế nào và tại sao bạn lại làm thế. Những phương pháp học tập này gây ra một số khó khăn hay vài sự thất vọng, hãy cởi mở với sinh viên về chúng và giảng giải cho họ vì sao chúng vẫn đáng để họ duy trì. Bạn nên lưu ý họ về tiểu sử của Micheal Young, người sinh viên trường Y đã được nhắc tới trong phần trước của chương này. Anh đã mang đến những mô tả sống động về những khó khăn và lợi ích cuối cùng trong quá trình áp dụng những chiến lược học tập này. Mary Pat Wenderoth, giảng viên bộ môn sinh học, Đại học Washington Mary Pat Wenderoth đưa những khó khăn vào trong lớp học của mình để giúp sinh viên nắm vững kiến thức của môn học. Bà cũng tiến hành các chiến lược giúp sinh viên học cách kiểm soát quá trình tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả – để họ có thể hình dung về việc nâng cao năng lực của mình trong lĩnh vực chuyên môn. Theo đó bà còn giải quyết một chướng ngại khác nữa, đó là trợ giúp các sinh viên học cách đánh giá mức độ nắm bắt tài liệu khóa học dựa theo nguyên tắc phân loại của Bloom, cũng như nâng cao trình độ phân tích và đánh giá của họ. Có sáu mức độ trong hệ thống phân loại nhận thức của Bloom. Hệ thống này được phát triển vào năm 1956 bởi một ủy ban giáo dục mà nhà tâm lý học Benjamin Bloom làm chủ tọa. Sáu mức độ này bao gồm: tiếp thu các kiến thức (trình độ cơ bản nhất) để phát triển nhận thức về các hiện tượng và khái niệm nền tảng, ứng dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề, phân tích khái niệm và các mối quan hệ để đưa ra các kết luận, tổng hợp kiến thức và khái niệm theo những cách thức mới mẻ và trình độ tinh vi nhất là sử dụng tri thức để đánh giá các ý kiến và quan điểm dựa trên các chứng cứ và tiêu chuẩn khách quan. Sau đây là một vài trong số các phương pháp chính mà Wenderoth sử dụng. Cởi mở và công khai. Ban đầu, Wenderoth cho các sinh viên biết về tác dụng của các bài kiểm tra, nguyên lý về những khó khăn đáng mong muốn, và những mối nguy hại đến từ “ảo tưởng lầm lạc về sự hiểu biết”. Bà hứa sẽ thiết kế tài liệu giảng dạy bộ môn tâm lý học của mình một cách rõ ràng dễ hiểu và đưa ra mô hình mẫu về các nguyên tắc này tại lớp học. Như bà vừa mới giải thích cho chúng tôi: “Mục đích của các bài kiểm tra là làm cho khối lượng kiến thức bạn tiếp thu được bằng cách tự kiểm tra lớn hơn so với chỉ đọc giáo trình một cách đơn thuần.” Tôi không thể kể hết cho bạn đã bao nhiêu lần các sinh viên tới gặp tôi và chỉ cho tôi thấy sách giáo khoa của họ. Đó là những cuốn sách được đánh dấu nổi bật bởi bốn màu sắc khác
  19. nhau. Tôi nói với họ: “Tôi có thể nói em đã rất chăm chỉ và em thực sự rất muốn trở thành một sinh viên thành công trong lớp này vì em có đầy những màu xanh, vàng, cam, và lục đánh dấu trên sách của mình.” Và rồi tôi phải cố gắng thuyết phục họ rằng nếu họ còn làm điều này thêm bất kỳ một lần nào nữa thì đó thực sự là một sự phí phạm thời gian. Họ nói: “Sao lại có thể như thế?” và tôi trả lời: “Điều em phải làm là chỉ đọc ít lần và sau đó tự kiểm tra mình về những kiến thức đã đọc,” nhưng họ vẫn chưa biết thực hiện điều đó như thế nào. Bởi vậy tôi làm mẫu về quá trình này cho họ trên lớp. Cứ mỗi năm phút tôi lại đưa ra một câu hỏi về tài liệu chúng tôi vừa thảo luận, và tôi có thể nhận thấy họ bắt đầu nghiên cứu lại những ghi chú của mình. Tôi nói: “Dừng lại. Đừng nhìn vào ghi chú của các em. Hãy dành một phút để tự mình nghĩ về nó.” Tôi giúp sinh viên hình dung bộ não của chúng ta cũng giống như một khu rừng, và ký ức của bạn đang ở đâu đó trong khu rừng này. Bạn đang ở đây, và ký ức của bạn thì ở kia. Bạn càng mở đường đến với ký ức đó nhiều lần thì con đường đó càng được gia cố vững chắc hơn, nhờ đó bạn sẽ dễ dàng tìm lại được ký ức này hơn nếu sau này bạn lại cần đến nó. Nhưng nếu bạn quay lại với những ghi chú thì nghĩa là bạn đã chặn đứng hành trình. Bạn không tự mình khám phá ra nó nữa mà do ai đó đã chỉ đường cho bạn. Trong nhiều lần khác, Wenderoth nêu ra một câu hỏi trước cả lớp và bảo họ suy nghĩ về nó. Bà yêu cầu sinh viên viết ba đáp án có thể lên phần trên của mặt trước tấm bảng rồi bỏ phiếu cho câu trả lời mà họ cho là đúng bằng cách giơ số ngón tay tương ứng với số thứ tự của đáp án được viết trên bảng. Sau đó, bà sẽ hướng dẫn họ tìm một ai đó với số ngón tay giơ lên khác với họ và thảo luận với nhau để tìm ra ai là người có câu trả lời đúng. Wenderoth mang đến cho sinh viên của mình một cách nhìn mới về quá trình học hỏi, cũng như một vốn từ mới để miêu tả những thất bại. Khi sinh viên trượt một kỳ thi, họ thường viện cớ đề bài bao gồm các câu hỏi quá hóc búa. Bà nói, khi một sinh viên đổ lỗi cho đề thi, đó không phải là một lý do hợp lý để giải quyết vấn đề. Nhưng giờ đây, các sinh viên đến gặp bà sau khi nhận được kết quả thi đáng thất vọng và nói: “Em đã nhầm tưởng về vốn hiểu biết của mình. Làm thế nào để em có thể khắc phục được nó?” Đó mới là vấn đề Wenderoth có thể giúp. Nhóm kiểm tra. Wenderoth đã chuyển hình thức “học tập theo nhóm” giữa các sinh viên trong lớp thành “kiểm tra theo nhóm.” Trong một nhóm học tập, ai biết nhiều nhất sẽ là người phát biểu nhiều nhất và những người còn lại lắng nghe. Hình thức này chú trọng việc nâng cao khả năng ghi nhớ mọi thứ. Tuy nhiên, trong một nhóm kiểm tra, tất cả mọi người cùng vật lộn với một câu hỏi mà không được mở sách giáo khoa. “Mỗi người lại có một chút thông tin, và bạn thảo luận với các bạn học để tìm ra đáp án.” Trọng tâm ở đây là kỹ năng tìm tòi khám phá và nhận thức vấn đề.
  20. Wenderoth sẽ hỏi các sinh viên trong một nhóm kiểm tra xem còn khái niệm nào họ cảm thấy chưa thực sự hiểu không. Sau đó bà sẽ gọi một sinh viên lên bảng và yêu cầu người này cố gắng giải thích khái niệm. Khi sinh viên này đang chật vật với khái niệm, có thể bằng cách chắp vá những mẩu thông tin liên quan đến đáp án mà cô biết, bà hướng dẫn những người còn lại trong nhóm kiểm tra cô bằng các câu hỏi. Đáp án của những câu hỏi này sẽ định hướng cho cô tới khái niệm rộng hơn. Trong suốt quá trình đó, mọi quyển sách giáo khoa đều đóng. Nhớ lại kiến thức một cách tự do. Wenderoth giao cho các sinh viên của mình dành mười phút cuối mỗi ngày để ngồi viết lại mọi điều họ có thể nhớ từ buổi học lên một trang giấy trắng. Họ phải ngồi đó trong vòng mười phút. Bà cảnh báo trước rằng làm điều đó không hề dễ chút nào, họ sẽ cạn kiệt ý tưởng sau hai phút, nhưng họ sẽ ghi nhớ chúng. Hết mười phút, họ mở lại những ghi chú đã học trên lớp và kiểm tra xem họ đã nhớ được gì và bỏ quên điều gì, và tập trung vào phần kiến thức mà họ đã quên. Những thông tin họ lượm lặt được từ bài tập này định hướng cho họ thực hiện việc ghi chú và thiết kế những câu hỏi cho bài học tới. Wenderoth nhận thấy rằng những bài tập cho phép sinh viên tự do nhắc lại kiến thức này sẽ giúp họ nhớ lại kiến thức và phát triển nhận thức về mối tương quan giữa các khái niệm trong tài liệu lên một trình độ phức tạp hơn. Bảng tổng kết. Vào thứ Hai hằng tuần, các sinh viên của Wenderoth được yêu cầu nộp lại một trang viết về một số khía cạnh nhất định. Họ minh họa kiến thức đã học trong tuần trước đó trên một mặt giấy duy nhất bằng những họa đồ với các chú giải về những ý chính, mũi tên và đồ thị. Bà đang giảng dạy bộ môn sinh lý, một môn học về cách thức vận hành của mọi thứ, do đó những bản tổng kết được thiết kế dưới dạng những trang bìa khổ rộng kín đặc các chú thích, ô chữ, mũi tên và hình vẽ. Những trang minh họa này giúp các sinh viên của bà tổng hợp những thông tin đã học trong một tuần và biết cách liên kết các hệ thống với nhau: “Cái này dẫn tới cái này, cái này nảy sinh cái kia, cái kia phản ứng lại với những cái khác. Chúng tôi rất hay sử dụng ký hiệu mũi tên trong môn sinh lý học. Các sinh viên có thể cùng làm chung với nhau, tôi không thấy có vấn đề với điều đó. Quan trọng là trang tổng kết họ mang tới phải do chính họ làm.” Những đoạn kiểm tra kiến thức. Theo thường lệ, vào thứ Sáu, nếu như không cảm thấy mình đang đặt quá nhiều gánh nặng lên các sinh viên, Wenderoth sẽ giao cho họ viết những đoạn văn trình bày thành quả học tập với hệ số điểm rất thấp. Trong đó, bà đặt ra một câu hỏi và yêu cầu sinh viên chuẩn bị một câu trả lời trong khoảng năm hay sáu câu. Một câu hỏi có thể là “ống dạ dày giống với hệ tiêu hóa như thế nào?” hay “Bạn vừa được trả lại bài kiểm tra, lần tới bạn sẽ làm gì khác?” Mục đích của bà là khuyến khích các sinh viên nhớ lại và suy ngẫm để có thể lưu giữ kiến thức đã học trong tuần trước khi nó bị mất dấu giữa vô vàn những mối quan tâm và xao lãng khác trong đời sống tại trường đại học. “Qua nhiều năm tôi đã nhận thấy một điều rằng, nếu như tôi không làm bất kỳ điều gì trước kỳ thi, họ sẽ không động đậy cho đến tận hôm trước ngày thi.” Những đoạn kiểm tra kiến thức cũng cho những sinh viên ưu tú
  21. trong lớp khoa học của bà cơ hội rèn luyện khả năng viết một đoạn văn xuôi rõ ràng. Bà đọc những câu trả lời từ đầu đến cuối và quyết định bình luận về chúng trong lớp học để các sinh viên biết rằng bà đã đọc các đáp án của họ. Hệ thống phân loại trình độ hiểu biết của Bloom. Để giảm bớt tính trừu tượng trong hệ thống phân loại của Bloom, Wenderoth đã chuyển thể kiến thức bà giảng dạy trên lớp thành nhiều trình độ khác nhau của hệ thống phân loại trên cùng một bản đáp án cho các bài kiểm tra. Tức là đối với mỗi câu hỏi được đưa ra, bà đều cung cấp các câu trả lời khác nhau tương ứng với mỗi trình độ: một đáp án phản ánh trình độ ở mức độ tiếp thu, một đáp án tỉ mỉ hơn phản ánh trình độ hiểu biết thấu đáo, một đáp án phức tạp hơn nữa cho thấy trình độ phân tích, v. v Khi sinh viên nhận lại bài kiểm tra, họ cũng nhận được đáp án và được yêu cầu xác định xem những câu trả lời của mình nằm ở mức độ nào trên thang phân loại cũng như nghĩ về những điều họ cần biết để có thể đưa ra đáp án ở một trình độ tiếp thu cao hơn. Thu hẹp khoảng cách thành tích trong các bộ môn khoa học. Wenderoth và các đồng nghiệp của bà đã tiến hành thí nghiệm với cơ cấu lớp học và những nguyên tắc học tập chủ động để rút ngắn khoảng cách thành tích trong các bộ môn khoa học. Những sinh viên không được chuẩn bị kỹ lưỡng hiếm khi sống sót qua các kỳ thi đầu vào của những khóa đào tạo khoa học. Vì thế, ngay cả những sinh viên sở hữu niềm yêu thích và năng lực, những điều sẽ dẫn họ tới sự nghiệp nghiên cứu thành công, cũng không bao giờ bước qua được cánh cửa đó. Vì giáo dục bậc trung học hay đời sống gia đình không dạy cho những sinh viên này cách để thành công trong những môi trường học thuật đầy tính thử thách như thế. “Với hầu hết những người đã đạt được thành tựu nhất định trong sự nghiệp khoa học như chúng tôi,” Wenderoth chia sẻ, “bất cứ khi nào chúng tôi vấp ngã, xung quanh luôn có một ai đó sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi, hay nói với chúng tôi: ‘Đó là cách bạn đứng lên sau cú ngã.’ Bạn được dạy rằng khi có điều gì đó không tốt xảy ra, bạn vẫn tiếp tục cố gắng. Bạn phải kiên trì.” Trong những thí nghiệm của họ, Wenderoth và các đồng nghiệp của mình đã so sánh những kết quả thu được từ các khóa học có “cơ cấu tổ chức ở trình độ thấp” (bài giảng được trình bày theo hình thức truyền thống và các bài kiểm tra giữa kỳ và cuối kỳ tính điểm hệ số cao) với các khóa học có “cơ cấu tổ chức ở trình độ cao” (các bài tập tính điểm hệ số thấp được tiến hành hằng tuần và hằng ngày để sinh viên liên tục có cơ hội luyện tập kỹ năng phân tích, một kỹ năng rất cần thiết để họ có thể làm tốt các bài kiểm tra). Họ cũng dạy sinh viên về tầm quan trọng của việc có một “tư duy cầu tiến” (xem lại tác phẩm của Carol Dweck, đã được thảo luận trong Chương 7) – tức là, học tập là một công việc đầy gian khó và chính những nỗ lực vượt qua gian khó đó thúc đẩy năng lực trí tuệ phát triển.
  22. Kết quả? Những lớp học có cơ cấu ở trình độ cao có tỷ lệ sinh viên trượt kỳ thi đầu vào môn sinh học thấp hơn một cách đáng kể so với các lớp học có cơ cấu ở trình độ thấp – thu hẹp khoảng cách giữa các sinh viên chưa được chuẩn bị kỹ càng với những bạn được chuẩn bị tốt hơn. Các sinh viên thuộc nhóm thứ nhất lại cho kết quả kiểm tra ở trình độ cao hơn tính theo thang điểm của Bloom so với nhóm thứ hai. Tuy nhiên, vấn đề ở đây không chỉ là liệu sinh viên có hoàn thành các bài tập thực hành hay không. Tại các lớp học mà điểm số từ các bài tập được tính vào kết quả đánh giá xếp hạng cho toàn khóa học, cho dù với hệ số rất thấp, sinh viên thành công hơn xét trên cả khóa học so với sinh viên tại các lớp cũng tiến hành các bài tập tương tự nhưng không được tính điểm. “Chúng tôi nói chuyện với sinh viên thế nào là các thói quen trong tư duy,” Wenderoth kể lại. “Đó là sự rèn luyện trí óc mà bạn bắt buộc phải có để đạt tới thành công trong lĩnh vực khoa học. Họ chưa bao giờ nghĩ về điều đó, rằng mọi sự rèn luyện đều cần được trau dồi mở mang. Chúng tôi dạy họ suy nghĩ như những chuyên gia mà họ muốn trở thành. Và khi họ thất bại, chúng tôi chỉ cho họ cách đứng dậy lần nữa.” Michael D. Matthews, Giảng viên Tâm lý học, Học viện quân sự Hoa Kỳ tại West Point Bộ môn triết học giáo dục tại West Point được sáng lập dựa trên một hệ thống giảng dạy có tên gọi là phương pháp Thayer và được phát triển từ gần 200 năm trước bởi một sĩ quan quản lý học viện tên Sylvanus Thayer. Phương thức này cung cấp cho mỗi khóa học những mục tiêu học tập cụ thể, phân công trách nhiệm cho mỗi sinh viên trong việc đáp ứng những mục tiêu đó, và kết hợp các câu hỏi vấn đáp cũng như trả lời miệng vào những buổi học trên lớp. Thứ hạng của sinh viên trong học viện được xác định dựa trên ba nội dung huấn luyện chính: học thuật, quân sự, và thể chất. Mike Matthews là một giảng viên bộ môn tâm lý học ứng dụng trong các ngành kỹ thuật tại học viện, ông cho biết sinh viên phải nhồi nhét một khối lượng học tập khổng lồ, lớn hơn rất nhiều so với số giờ mỗi ngày họ có thể dành cho việc học. Để có thể tồn tại ở học viện, các học viên tại West Point phải phát triển khả năng nhắm trúng những mục đích thiết yếu và bỏ những điều còn lại bên lề đường. “Ở đây các sinh viên phải bận rộn đáp ứng những kỳ vọng lớn trên nhiều phương diện,” Matthew nói. Nghe có vẻ choáng váng, nhưng kỳ thực Matthews sẽ nói với một sinh viên rằng: “Nếu em đã đọc hết từng chữ một trong chương này thì cách học của em không lấy làm hiệu quả lắm.” Vấn đề ở đây không phải là “mở to mắt lướt qua hết từng từ”, bạn phải bắt đầu bằng những câu hỏi, và đọc để tìm kiếm đáp án. Matthews hầu như không hoặc rất hiếm khi giảng bài trên lớp. Buổi học bắt đầu với một
  23. câu hỏi về đối tượng kiến thức mà ông đã giao cho sinh viên đọc trước. Từ đó, trong nhiều ngày, các sinh viên lần lượt “lên bảng”. Các phòng học đều gắn bảng trên bốn bức tường, và một nhóm sinh viên được cử lên đứng trước mỗi tấm bảng đen để cộng tác với nhau cùng trả lời một câu hỏi được đặt ra bởi giáo viên. Đó là những câu hỏi ở trình độ cao hơn những câu hỏi thường ngày, đòi hỏi sinh viên phải kết hợp các kiến thức thu được từ việc đọc trước và áp dụng chúng ở trình độ khái niệm. Mỗi nhóm chọn ra một sinh viên để trả lời miệng trước cả lớp, diễn giải đáp án mà cả nhóm đưa ra, và sau đó thành quả của cả nhóm sẽ được đánh giá. Tất cả các buổi thảo luận của cả lớp tập trung vào những vấn đề có tính cấu trúc, chứ không phải những hiện tượng cụ thể, và trong những ngày các sinh viên không phải lên bảng, họ tiến hành những hình thức luyện tập khác, thuyết trình hay làm việc nhóm. Mục đích của những hoạt động này là nâng cao khả năng nhận thức và phát biểu một cách lưu loát những khái niệm ở phạm vi rộng hơn, nền tảng của vấn đề đang được nghiên cứu. Những mục tiêu học tập rõ ràng được đặt ra trước mỗi buổi học kết hợp với kiểm tra hằng ngày cùng phương pháp chủ động giải quyết vấn đề và thông tin phản hồi khiến cho sinh viên trở nên tập trung, và học tập chăm chỉ hơn. Một trong số những kỹ năng quan trọng nhất được đào tạo tại West Point lại được tiếp thu ngoài phạm vi lớp học: làm thế nào để ngắm góc phương vị. Kỹ năng này được sử dụng để xác định phương hướng trên những vùng đất xa lạ. Bạn trèo lên một cái cây hay một vùng đất cao nhất định và nhìn về một cột mốc ở phía xa mà bạn đang đi tới. Với la bàn trong tay, bạn ghi chú lại xem cột mốc của bạn chệch đi bao nhiêu độ so với hướng chính Bắc. Rồi bạn tụt xuống bụi cây và tiếp tục đi về hướng đó. Thỉnh thoảng bạn dừng lại theo một chu kỳ nhất định để ngắm góc phương vị và chắc chắn rằng mình vẫn đang đi đúng hướng. Việc kiểm tra vấn đáp cũng giống như bạn đang ngắm góc phương vị trong lớp: bạn có đang nắm bắt đúng những lĩnh vực kiến thức mà bạn đang cố gắng cải thiện? Matthews có cơ hội được nhìn thấy hai trong số các sinh viên của mình nhận học bổng Rhodes. Gần đây nhất là học viên Kiley Hunkler (hiện là Thiếu úy Hunkler). Hunkler sẽ học hai năm tại Đại học Oxford và sau đó sẽ được tuyển vào trường Y John Hopkins. Chính Hunkler đã đề cập tới ngắm góc phương vị trong cuộc nói chuyện với chúng tôi. “Mọi điều bạn làm trong môi trường học thuật đều xoay quanh việc bạn tự chịu trách nhiệm với bản thân, tự khám phá ra con đường tới mục tiêu của riêng mình,” cô chia sẻ. Như kỳ thi đầu vào của trường Y chẳng hạn. Kỳ thi này bao gồm bốn phần chính: kỹ năng đọc, kiến thức hóa học, kỹ năng thể chất và kỹ năng viết. Hunkler xây dựng trong đầu mình những mục tiêu học tập cho mỗi đơn vị kiến thức mà cô cho là quan trọng nhất và tiến hành giải đáp chúng ngay trong lúc nghiên cứu tài liệu. “Cứ ba ngày tôi lại làm một bài kiểm tra, để xem tôi đã làm gì sai và điều chỉnh lại.” Cô đang ngắm góc phương vị của mình. “Nhiều sinh viên học tập hàng tháng trời, cố gắng nhớ lại mọi thứ, nhưng tôi chú trọng việc hiểu đúng khái niệm hơn. Bởi vậy, phép kiểm tra bằng góc phương vị của tôi là câu hỏi này đề cập đến vấn đề gì, chủ đề ở phạm vi rộng hơn là gì, và nó có
  24. phù hợp với những gì tôi đã viết trong dàn ý của mình về chương này hay không.” Một trong số những tác giả của cuốn sách này (Roediger) đã học trung học tại Học viện quân sự Riverside ở Gainesville, Georgia. Riverside sử dụng một mô hình tương tự như phương pháp Thayer: hằng ngày sinh viên làm các các bài kiểm tra, các dạng toán, hay bài tập ngay trên lớp. Phạm vi trình độ của các học viên trẻ tuổi ở đây đa dạng hơn nhiều so với những học viên tinh nhuệ của Học viện quân sự Hoa Kỳ tại West Point, nhưng phương pháp Thayer vẫn phát huy tác dụng. Thực tế, những phương pháp như thế này yêu cầu học sinh tham gia vào các hoạt động hằng ngày trên lớp, do vậy đặc biệt hữu ích với những học sinh không tự giác học tập ngoài phạm vi lớp học. Phương pháp Thayer là một sự khuyến khích mạnh mẽ cho sinh viên duy trì mô hình học tập này, cũng như thống nhất với những gì Mary Pat Wenderoth (được đề cập đến ở trên) đã phát hiện ra trong những nghiên cứu thực nghiệm của mình: những buổi học với cơ cấu ở trình độ cao giúp những sinh viên chưa từng sử dụng các phương pháp và thói quen học tập có cơ hội phát triển chúng và thành công trong những môi trường học tập khắc nghiệt. Kathleen McDermott, Giảng viên Tâm lý học, Đại học Washington ở St. Louis Kathleen McDemott thường xuyên tiến hành các bài kiểm tra hệ số thấp trong một chương trình đào tạo bậc đại học về khả năng tiếp thu và ghi nhớ của 25 sinh viên trong lớp. Các bài kiểm tra được tiến hành hai lần một tuần trong vòng 14 tuần, không có các bài kiểm tra giữa kỳ và cuối kỳ. Các câu hỏi đều nằm trong phạm vi bài giảng, bài đọc hay cả hai. Nếu các sinh viên đã hiểu tài liệu, họ sẽ trả lời đúng cả bốn câu hỏi, nhưng họ sẽ phải suy nghĩ kỹ mới có thể làm được điều đó. Mọi kiến thức đã trình bày trong khóa học đều được đưa vào bài kiểm tra, và đôi khi bà cũng kiểm tra kiến thức đã học từ trước mà bà cảm thấy sinh viên chưa thực sự hiểu đầy đủ và cần được ôn lại. McDermott quy định rõ ràng các nguyên tắc cơ bản ngay từ đầu học kỳ. Bà trình bày các nghiên cứu về quy trình học tập và tác dụng của hệ thống kiểm tra cũng như lý giải vì sao chúng hữu ích, ngay cả nếu các sinh viên không hề cảm thấy chúng hữu ích cho họ. Sinh viên được phép không tham gia bốn bài kiểm tra trên toàn bộ học kỳ. Đổi lại, sinh viên không cần lấy lý do cho những lần vắng mặt và không được làm bù các bài kiểm tra đã bỏ lỡ. Ban đầu các sinh viên không lấy làm hứng thú với chế độ kiểm tra, và trong vài tuần đầu tiên của học kỳ, McDermott nhận được thư điện tử từ sinh viên, trong đó họ giải thích vì sao họ vắng mặt và bà nên cho phép họ làm bù bài kiểm tra họ đã bỏ lỡ. Bà lặp lại: bốn lần vắng mặt tự do, không kiểm tra bù.
  25. McDermott cho rằng các bài kiểm tra khích lệ sinh viên đến lớp. Thêm vào đó, hằng ngày họ đều có cơ hội nâng cao điểm số nếu như họ trả lời đúng cả bốn câu hỏi. Gần hết học kỳ, các sinh viên của bà cho biết những bài kiểm tra đã giúp họ theo sát tiến độ khóa học và phát hiện ra khi nào họ đang đi lệch hướng và cần trau dồi thêm. “Bí quyết trong quá trình thực hiện các bài kiểm tra là thiết kế chúng dựa trên nguyên tắc nền tảng: rõ ràng cho các sinh viên và dễ quản lý cho các giáo viên,” McDermott chia sẻ. “Là một sinh viên hoặc là bạn đến lớp và làm bài kiểm tra hoặc là không. Đối với giáo viên, họ không bị phiền nhiễu bởi các bài kiểm tra bù.” Các bài kiểm tra chiếm tổng cộng 20% số điểm của sinh viên trên toàn khóa học. Ngoài ra, McDermott tổ chức hai bài kiểm tra giữa kỳ và một bài thi cuối kỳ. Hai bài kiểm tra sau có tính tích lũy. Các bài kiểm tra này củng cố kiến thức bằng cách yêu cầu sinh viên ôn tập theo hình thức ngắt quãng. Trường Công lập Columbia, bang Illinois Như đã đề cập đến trong chương 2, chúng tôi đã làm việc với các giáo viên trong một trường trung học ở Columbia, Illinois để kiểm chứng tác dụng của việc kết hợp các bài kiểm tra hệ số thấp vào chương trình đào tạo. Các giáo viên trong trường đã áp dụng hệ thống kiểm tra thường xuyên và những hình thức luyện tập có tính gợi nhớ khác. Họ tham gia vào các công trình nghiên cứu được thực hiện bởi những người không trực tiếp thực hiện nhưng theo dõi những lợi ích chúng mang lại. Những dự án nghiên cứu ban đầu đã được mở rộng sang các lớp học Lịch sử và Khoa học tại trường trung học của quận. Tại đây phương pháp rèn luyện có tính gợi nhớ được sử dụng thường xuyên không chỉ hỗ trợ học sinh củng cố kiến thức mà còn giúp các giáo viên đặt trọng tâm giảng dạy vào những lĩnh vực mà sự hiểu biết và kỹ năng của học sinh cần được cải thiện. Ủy ban Giáo dục bang Illinois đã thông qua một tiêu chuẩn mới áp dụng cho hệ thống giáo dục trung học (K-12) trong các môn toán và ngữ văn. Tiêu chuẩn này tuân thủ sáng kiến giáo dục được đưa ra trong Chuẩn Chương trình cốt lõi chung cho các bang trên lãnh thổ Hoa Kỳ được đưa ra bởi Hiệp hội Thống đốc các bang và được phê duyệt bởi Bộ trưởng Giáo dục Hoa kỳ. Chương trình cốt lõi thiết lập các tiêu chuẩn về việc trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng thiết yếu để học đại học và đi làm. Giống như các trường khác, trường trung học quận Columbia đang thiết kế lại giáo trình đào tạo và hệ thống kiểm tra theo hướng nghiêm ngặt hơn và khuyến khích học sinh tham gia nhiều hơn vào các bài tập viết cũng như phân tích,
  26. nhằm mục tiêu phát triển các kỹ năng nhận thức khái niệm, lý luận, và giải quyết vấn đề ở những trình độ cao hơn. Với các kỹ năng này, học sinh có thể đáp ứng tiêu chuẩn mới do bang đề ra. Một ví dụ về sự đổi mới này là giáo trình cho các môn khoa học được thiết kế dọc để học sinh được tiếp xúc lại với một môn học ở nhiều giai đoạn trong chương trình đào tạo hướng nghiệp. Điều này làm gia tăng khoảng cách thời gian cũng như lồng ghép thêm nhiều nội dung vào trong chương trình giảng dạy. Đối với môn vật lý chẳng hạn, các học sinh trung học sẽ được học cách xác định sáu loại công cụ cơ bản (mặt phẳng nghiêng, cái nêm, đinh ốc, đòn bẩy, bánh xe và trục xe, ròng rọc) cũng như cách thức hoạt động của chúng, rồi sau đó có thể các em sẽ quay trở lại với những khái niệm này trong những lớp học kế tiếp. Khi đó các em sẽ nghiên cứu sâu hơn về các định luật vật lý cơ bản, cách thức kết hợp các công cụ cơ bản này, và áp dụng chúng để giải quyết các dạng toán khác nhau. LỜI KHUYÊN DÀNH CHO CÁC CHUYÊN GIA GIÁO DỤC Những chuyên gia giáo dục cũng sử dụng các nguyên tắc tương tự như các giáo viên tại các trường học, nhưng trong những mô hình ít tính cấu trúc và được thực hiện bên ngoài phạm vi lớp học. Sau đây là một vài trường hợp như vậy. Mô hình đào tạo tại chức Trong nhiều lĩnh vực, những chuyên viên đã được cấp phép vẫn cần liên tục thi lấy chứng chỉ đào tạo để củng cố các kỹ năng hiện tại và duy trì bằng cấp của họ. Như nhà giải phẫu thần kinh học Doug Larsen đã tường thuật trong Chương 3, theo loại hình điển hình áp dụng cho các bác sĩ này, nội dung đào tạo thường được trình bày một cách cô đọng trong một buổi hội thảo chuyên đề cuối tuần do lịch làm việc bận rộn của các bác sĩ. Các buổi hội thảo này hay được tổ chức tại một khách sạn hay khu nghỉ dưỡng với các bữa ăn được bố trí xung quanh và những bài thuyết trình PowerPoint. Nói theo một cách khác, các phương pháp ôn tập thông qua gợi nhớ, ngắt quãng, và lồng ghép nhiều nội dung trong quá trình đào tạo không hề được áp dụng. Những người tham dự phải cần đến may mắn mới có thể ghi nhớ được nhiều kiến thức mà họ được học. Nếu bạn nhận thấy mình đang ở trong tình huống này, có thể bạn sẽ cân nhắc việc thực hiện một số điều. Thứ nhất, lấy bản sao của tài liệu được thuyết trình và sử dụng chúng để tự kiểm tra lại xem mình có nắm được các ý chính hay không, tương tự như Nathaniel Fuller tự kiểm tra hiểu biết của bản thân về các màn trong vở kịch, lời thoại của vai diễn anh đóng, cũng như nhiều lớp nhân vật. Thứ hai, sắp xếp để các e-mail theo sau buổi hội thảo xuất hiện trong hòm thư của bạn hằng tháng, hay làm tương tự với các câu hỏi. Những câu hỏi này yêu cầu bạn
  27. khôi phục lại các kiến thức trọng yếu mà bạn đã tiếp thu được từ buổi hội thảo. Thứ ba, liên hệ với hiệp hội các chuyên gia trong lĩnh vực của bạn và đề xuất họ cân nhắc đến việc điều chỉnh phương pháp đào tạo của họ cho phù hợp với các chiến lược đã được tóm tắt trong cuốn sách này. Tác dụng của việc tiến hành các bài kiểm tra là cơ sở hình thành nên một diễn đàn giáo dục mới có tính thương mại với tên gọi Qstream. Diễn đàn này hỗ trợ các giảng viên trong việc gửi các câu hỏi thường kỳ tới học viên bằng các thiết bị di động, nhờ đó mà học viên có cơ hội củng cố lại kiến thức thông qua hình thức ôn tập có tính gợi nhớ và ngắt quãng. Tương tự, một diễn đàn mới nổi khác có tên Osmosis sử dụng phần mềm trên điện thoại di động và các trang Web để giúp học viên tiếp cận với hàng nghìn câu hỏi ôn tập và đáp án được đóng góp bởi nhiều cá nhân. Osmosis kết hợp tác dụng của hệ thống kiểm tra, khoảng cách thời gian giữa các lần luyện tập, và sức mạnh của mạng xã hội để hỗ trợ cho điều mà các nhà phát triển diễn đàn này vẫn gọi là “quá trình học tập mang tính xã hội hướng đến lợi ích của học viên.” Qstream (qstream.com) và Osmosis (osmose-it.com) đã cho thấy việc tái thiết lại các chương trình đào tạo cho chuyên viên là hoàn toàn có thể. Rất nhiều công ty khác đang phát triển những chương trình tương tự. Kathy Maixner, Chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực kinh doanh Maixner Group là một trung tâm tư vấn nghề nghiệp có trụ sở tại Portland, Oregon hoạt động nhằm mục đích giúp các công ty xác định những chiến lược phát triển và cải thiện chiến thuật kinh doanh của họ. Kathy Maixner đã cộng tác với một số doanh nghiệp lớn và nhỏ. Một trong số những công ty lớn đã tăng thêm 21 triệu đô-la vào doanh thu hằng năm của mình nhờ cộng tác với Maixner. Một trong số những doanh nghiệp nhỏ, Inner Gate Acupunture đã học được cách xây dựng một nền tảng quản trị doanh nghiệp vững chắc theo một quy trình thực hành mà sự phát triển của nó còn vượt xa hệ thống giám sát nó. Maixner thu hút sự chú ý của chúng tôi vì những phương pháp đào tạo bà phát triển trong suốt sự nghiệp của mình đều thống nhất với những nguyên tắc học hỏi được mô tả trong cuốn sách này. Tóm lại, Maixner ý thức được vai trò của mình trong việc giúp đỡ khách hàng nghiên cứu về những triệu chứng của một vấn đề để có thể phát hiện ra nguyên nhân gốc rễ của nó, từ đó đưa ra những giải pháp có thể và tận dụng mối quan hệ giữa các chiến lược trước khi tiến hành chúng trong dài hạn. Maixner chia sẻ với chúng tôi: “Nếu bạn cung cấp giải pháp cho mọi người, họ sẽ không cần phải khám phá ra cách bạn tìm ra giải pháp đó. Nếu họ tự tìm ra giải pháp thì họ mới là chính
  28. là người tự khai phá con đường đó. Họ nên rẽ trái hay phải? Chúng tôi cùng thảo luận những giải pháp.” Nhiều năm kinh nghiệm làm việc với các khách hàng trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã giúp bà nhận ra nhiều góc khuất xung quanh, nơi trú ngụ của những nguy cơ. Bà thường sử dụng hình thức đóng vai để mô phỏng vấn đề, khuyến khích các khách hàng của mình tự đưa ra giải pháp, thử nghiệm chúng, thu thập thông tin phản hồi và tiến hành những giải pháp có hiệu quả. Nói theo một cách khác, bà đưa ra những khó khăn khiến quá trình học hỏi trở nên mạnh mẽ cũng như phản ánh những gì khách hàng phải đối mặt trên thương trường một cách chính xác hơn. Farmers Insurance Việc đào tạo các chuyên viên bán hàng cho các doanh nghiệp khá phức tạp. Nội dung chủ yếu trong các khóa đào tạo này là văn hóa doanh nghiệp, niềm tin và hành vi, cũng như kiến thức để quảng bá và bảo vệ thương hiệu. Các vấn đề kỹ thuật, hiểu biết về đặc điểm và lợi thế của các sản phẩm cũng được đề cập đến. Một phần khác nữa là các vấn đề chiến lược, hiểu biết về thị trường mục tiêu, cách gia tăng triển vọng và tạo ra doanh số. Lực lượng bán hàng trực tiếp chính của Farmers Insurance là một đội ngũ gần 14.000 đại lý độc quyền làm việc độc lập với nhau. Tại đây, họ phải trang bị cho các đại diện của công ty những kiến thức và kỹ năng cần thiết để trở thành những doanh nhân thành đạt, những người sẽ xây dựng và quản lý đại lý của chính họ. Farmers kinh doanh các hình thức bảo hiểm tài sản và bảo hiểm tai nạn cũng như các sản phẩm đầu tư như các khoản niên kim và đầu tư tín thác với số tiền bảo hiểm hàng năm lên tới 20 triệu đô-la. Để nói về phạm vi đào tạo của họ có thể sẽ cần đến cả vài cuốn sách, nhưng chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào quá trình Farmers giao trọng trách cho những đại lý mới của họ, huấn luyện những người này theo bốn lĩnh vực chính là doanh số, phương pháp tiếp thị, hoạch định kinh doanh và quảng bá thương hiệu. Khóa đào tạo đại lý mới của công ty này là một ví dụ tuyệt vời về sự lồng ghép các kiến thức, cũng như nội dung luyện tập khác nhau nhưng cùng liên quan tới chủ đề; nhờ đó nội dung này lại bổ sung thêm ý nghĩa cho nội dung khác, gia tăng cả bề rộng lẫn chiều sâu năng lực của học viên. Mỗi năm công ty tuyển dụng trên 2.000 đại lý mới. Nhiều người trong số đó đã từ bỏ những công việc truyền thống trong một lĩnh vực nào đó, và bị thu hút bởi những phần thưởng từ việc vận hành công việc kinh doanh của chính mình và cơ hội được đại diện cho một dòng sản phẩm uy tín. Những nhân viên đại lý mới được bổ nhiệm có mặt tại một trong hai trại huấn
  29. luyện để tham gia vào một chương trình chuyên sâu kéo dài bảy ngày. Chương trình này bao gồm các bài tập với độ khó tăng dần. Ban đầu, những người tham gia được giao một chồng tạp chí, kéo và bút đánh dấu. Họ sẽ phải dùng những vật dụng này để minh họa chân dung của một nhân viên đại lý Farmers thành đạt sau năm năm làm việc. Vài người vẽ những cơ ngơi xa hoa hay những chiếc xe hơi đắt tiền. Với vài người khác, đó là viễn cảnh con cái họ được gửi tới trường đại học hay cha mẹ già cả của họ được phụng dưỡng. Vấn đề tương đối đơn giản: nếu định nghĩa về sự thành công của bạn quy định rõ mục tiêu, như doanh thu hàng năm 250 nghìn đô hay 2.500 hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chẳng hạn, chúng tôi có thể giúp bạn thiết lập các tiêu chuẩn về mục tiêu bạn cần đạt đến trong bốn năm nữa, ba năm nữa, và thậm chí là ba tháng sau tính từ bây giờ. Viễn cảnh trên áp phích chỉ ra đích đến cuối cùng bạn nhắm đến, những tiêu chuẩn bạn đặt ra là bản đồ đường đi, và những kỹ năng bạn lĩnh hội được trong những ngày tháng sắp tới là công cụ cho phép bạn thực hiện hành trình. Từ đây, nội dung giảng dạy trong tuần không theo thứ tự từ trên xuống – không thuyết trình PowerPoint – mà là từ dưới lên, như: “Tôi cần những kiến thức và kỹ năng nào để có thể thành công?” Kiến thức được trải ra trong một loạt bài tập xoay vòng quanh các đề tài chính về doanh số, phương pháp tiếp thị, hoạch định kinh doanh và vận động để quảng bá thương hiệu – quay trở lại các chủ điểm hết lần này đến lần khác, và tuân thủ tiêu chí: người tham dự phải nhớ lại những gì họ đã học trước đó và ứng dụng chúng trong một bối cảnh mới có phạm vi rộng hơn. Ví dụ, khi người tham dự đến trước, họ được phân vào các đội đỏ, xanh da trời và xanh lục. Đội đỏ được hướng dẫn gặp mọi người trong phòng. Đội xanh da trời được yêu cầu tìm hiểu ba điều về mọi người trong phòng. Nhiệm vụ của đội xanh lục là phỏng vấn một thành viên khác trong lớp về gia đình (family) của anh ấy hoặc cô ấy, công việc (occupation) trước kia, hình thức giải trí (recreation) yêu thích, và anh ấy/cô ấy thích (enjoys) gì nhất. Khi cả lớp tập hợp, họ chia sẻ những gì mình đã tìm hiểu được về người khác, và rất nhanh chóng để nhận ra rằng đội xanh lá cùng phương thức giao tiếp với người khác học được nhiều hơn so với các đồng nghiệp. Trong quá trình thảo luận về doanh số trong phần sau của tuần học, một thắc mắc nảy sinh: đâu là cách thức hiệu quả để nghiên cứu về khách hàng tiềm năng? Một số người sẽ nhận ra bài tập thực hành thiết lập mối quan hệ ban đầu là hữu hiệu: thu thập thông tin về gia đình, nghề nghiệp, thị hiếu giải trí và sở thích của một ai đó. Giao tiếp với người khác để phá tan bầu
  30. không khí e dè ban đầu đã trở thành một công cụ đắc lực trong việc xác định đối tượng khách hàng tiềm năng. Công cụ này được viết tắt là FORE (family-gia đình, occupation-nghề nghiệp, recreation-giải trí, enjoyment-sở thích). Trong suốt cả tuần, bốn đề tài đào tạo chính này được đề cập đến nhiều lần, vấn đề được nêu rõ, và các bài tập chuyển sang các câu hỏi có liên quan. Trong một buổi học, những người tham dự phải suy nghĩ để tìm ra loại hình tiếp thị và chiến lược phát triển giúp gia tăng dòng người tiêu dùng tiên phong mà họ cần để đạt mục tiêu về doanh số. Một doanh số và phương pháp tiếp thị hiệu quả là một cấu trúc có tên 5-4-3-2-1. Năm sáng kiến tiếp thị mới được áp dụng trong hoạt động kinh doanh hằng tháng, bốn chương trình tiếp thị chéo và duy trì khách hàng tại chỗ, ba cuộc hẹn với khách hàng được lên lịch hằng ngày, hai cuộc hẹn được thực hiện (những khách hàng tiềm năng thường phải hoãn), bán được trung bình hai sản phẩm cho một khách hàng mới. Họ làm việc 22 ngày một tháng, ký kết được khoảng 500 hợp đồng mới một năm, đạt doanh số 2.500 trong vòng năm năm theo đúng tầm nhìn của đại lý. Thực hành là chiến lược học hỏi chủ chốt. Chẳng hạn, họ thực hành cách trả lời một người tiêu dùng tiên phong. Họ hiểu rằng kinh doanh là cố gắng bán được các sản phẩm của công ty, nhưng họ cũng phải hiểu biết về những sản phẩm họ đang bán – chứ không phải là ngồi trước những trang trình chiếu PowerPoint và nhìn chằm chằm vào những danh sách dài liệt kê các đặc tính sản phẩm. Bạn là nhân viên đại lý, tôi là khách hàng. Rồi chúng ta đổi vai cho nhau. Đan cài các hình thức bài tập thực hành là những cách khác giúp các nhân viên đại lý mới tìm hiểu về lịch sử và lập trường của công ty, cũng như giá trị mà các sản phẩm của nó mang lại cho cuộc sống con người, ví dụ như những câu chuyện về quá trình công ty này giúp người bị nạn hồi phục sau các thảm họa như cơn bão Katrina. Một nhân viên đại lý quyết định họ sẽ thực hiện chiến lược nào khi đã được nhấn mạnh về tầm quan trọng của tiếp thị và những nguồn lực hạn chế mà họ phải đầu tư? Câu hỏi được đặt ra là: Đâu là nguồn thu hợp lý có thể mong đợi từ một chiến dịch gửi thư trực tiếp tới khách hàng? Những nhân viên đại lý suy đi nghĩ lại và đánh bạo đưa ra các phỏng đoán. Thông thường, một hoặc nhiều nhân viên đại lý đã từng có kinh nghiệm về tiếp thị qua thư có thể đưa ra câu trả lời tỉnh táo: nguồn thu về gần với 1% hơn là 50 % như nhiều người đã phỏng đoán. Khi bạn gặp một người tiêu dùng lần đầu, bạn làm thế nào để khám phá ra những sản phẩm của công ty có thể đáp ứng nhu cầu gì của họ? Họ quay lại với những chữ cái viết tắt dễ nhớ FORE. Bây giờ, thói quen thăm hỏi về gia đình, nghề nghiệp, thú vui, và sở thích của một ai đó trở thành một điều gì đó thậm chí còn hữu hiệu hơn một công cụ thiết lập mối quan hệ. Nó mở
  31. ra cánh cửa cho bạn thâm nhập vào bốn trong số những lĩnh vực đời sống quan trọng nhất của một khách hàng tiềm năng. Các sản phẩm bảo hiểm và tài chính có thể hỗ trợ cá nhân bảo vệ tài sản của mình và đạt được những mục tiêu tài chính trong các lĩnh vực này. Trước khi chuyển sang đối tượng khác, tại mỗi vấn đề trọng tâm, kiến thức được khơi sâu thêm và kỹ năng mới được hình thành. Theo cách này, thông qua chương trình đào tạo đặt trọng tâm vào các hình thức kiến tạo, thực hành có quãng nghỉ và đan xen nhiều nội dung luyện tập, với suy nghĩ luôn hướng về tầm nhìn năm năm và bám sát bản đồ hành trình, những nhân viên đại lý mới sẽ hiểu mình phải làm gì và làm như thế nào để có thể phát triển như một thành viên trong gia đình Farmers Insurance. Jiffy Lube Nếu bạn nghĩ những cải tiến trong quy trình đào tạo khó có thể nảy sinh từ một gara ô tô địa phương, Jiffy Lube có thể sẽ làm bạn ngạc nhiên. Một hệ thống đào tạo với các khóa học được liên kết đồng bộ với nhau dưới cái tên được đặt vui là Đại học Jiffy Lube đang giúp đỡ các cơ sở nhượng quyền kinh doanh của công ty này thu hút được khách hàng, giảm tốc độ thay thế nhân công, mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ và đẩy nhanh doanh số. Jiffy Lube là một mạng lưới hơn 2.000 trung tâm dịch vụ tại Hoa Kỳ và Canada. Các trung tâm này cung cấp dịch vụ thay dầu, quay bánh xe và các dịch vụ khác dành cho xe hơi. Mặc dù công ty này là một chi nhánh của công ty dầu khí Shell nhưng mọi cửa hàng đều được sở hữu và vận hành bởi một tổ chức/cá nhân nhượng quyền độc lập. Những cửa hàng nhượng quyền này thuê các nhân công để phục vụ khách hàng. Như hầu hết mọi ngành kinh doanh khác, dịch vụ thay dầu nhanh phải điều chỉnh để thích ứng với những biến động trên thị trường cũng như các tiến bộ công nghệ. Sự ra đời của dầu nhờn nhân tạo khiến cho khách hàng thay dầu ít thường xuyên hơn. Thêm vào đó, xe hơi đang trở nên ngày càng tinh vi phức tạp, nên những nhân viên tại các gara cần được huấn luyện ở những trình độ cao hơn để nắm bắt được các quy tắc chẩn đoán và cung cấp những dịch vụ phù hợp. Không nhân viên nào được xử lý một chiếc xe của khách hàng cho đến khi người đó được chứng nhận là đủ trình độ. Vì thế, họ tham gia Jiffy Lube University, một diễn đàn giáo dục trực tuyến. Quy trình cấp chứng chỉ bắt đầu với các bài học tương tác trực tuyến, những bài kiểm
  32. tra thường xuyên và thông tin phản hồi. Thông qua đó học viên biết được một công việc cụ thể đòi hỏi những gì và làm thế nào để thực hiện được chúng. Khi các nhân viên đạt từ 80% số điểm trở lên trong một bài kiểm tra, họ đủ điều kiện bắt đầu chương trình đào tạo cho công việc, thực hành kỹ năng mới bằng cách tuân thủ một tài liệu hướng dẫn trong đó mỗi quy trình thao tác dịch vụ được chia nhỏ thành các bước. Những bước này có thể được đánh số tới 30 và được tiến hành bởi từng thành viên trong đội, thường là các cuộc gọi và trả lời (ví dụ như giữa một nhân viên kỹ thuật làm việc từ đầu trên của cơ cấu và một nhân viên khác ở bên dưới). Một người giám sát hướng dẫn cho người nhân viên và xếp hạng thành tích của người đó trong mỗi bước. Khi kỹ thuật viên chứng tỏ được sự thuần thục của mình, chứng chỉ sẽ được ghi nhận lại vĩnh viễn trong hồ sơ của họ và được ký bởi người giám sát. Các kỹ thuật viên phải thi lại chứng chỉ hai năm một lần để duy trì trình độ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn và thích nghi với những thay đổi trong trong quá trình vận hành và thao tác kỹ thuật. Những thao tác ở một trình độ cao hơn nhằm cung ứng những dịch vụ nâng cao như sửa phanh hay kiểm tra động cơ cũng được huấn luyện theo cách này. Đào tạo trực tuyến và ngay tại nơi làm việc là những phương pháp học tập chủ động kết hợp phong phú nhiều dạng bài kiểm tra, thông tin phản hồi, cũng như ngắt quãng và đan xen trong quá trình luyện tập. Mọi sự tiến bộ của học viên đều được hiển thị trên một bảng điều khiển ảo trong máy tính. Bảng điều khiển này cung cấp một kế hoạch học tập cá nhân, cho phép nhân viên theo dõi quá trình thực hiện của mình, tập trung vào những kỹ năng cần được trau dồi, và điều chỉnh tiến độ của mình theo sát kế hoạch hoàn thành của công ty. Nhân viên của Jiffy Lube thường nằm trong độ tuổi từ 18-25 và đây là công việc đầu tiên của họ. Khi đã được cấp chứng chỉ cho một thao tác, họ bắt đầu được đào tạo một thao tác khác cho đến khi họ được huấn luyện cho mọi vị trí trong cửa hàng, bao gồm cả vị trí quản lý. Ken Barber, giám đốc bộ phận đào tạo và phát triển của Jiffy cho biết quá trình huấn luyện phải được thực hiện nhằm duy trì sự chú ý của các nhân viên. Tại thời điểm diễn ra cuộc nói chuyện của chúng tôi, Barber đang nhập những thao tác cuối cùng trong một trò chơi mô phỏng trên máy vi tính dành cho các giám đốc của công ty có tên “Một ngày trong cuộc đời một giám đốc cửa hàng”. Vị trí giám đốc trung tâm chăm sóc khách hàng đòi hỏi họ phải đối mặt với nhiều thử thách khác nhau và những sự lựa chọn giữa hàng loạt các phương pháp có thể để giải quyết chúng. Những lựa chọn của người quản lý quyết định diễn biến trò chơi, cung cấp thông tin phản hồi, cho họ cơ hội cố gắng để đạt được kết quả tốt hơn, và mài giũa kỹ năng ra quyết định của họ trở nên sắc bén hơn. Trong vòng sáu năm kể từ khi ra mắt, Jiffy Lube University đã nhận được nhiều sự tán đồng từ giới chuyên môn trong lĩnh vực đào tạo và được cấp phép bởi Hội đồng Giáo dục Hoa Kỳ. Những nhân viên tiến bộ trên mọi vị trí trong suốt quá trình huấn luyện có thể tham gia một chương trình giáo dục hậu trung học để đạt được một tín chỉ bậc cao đẳng với bảy giờ học. Từ khi bắt đầu chương trình, tốc độ thay thế nhân viên sụt giảm hẳn cũng như mức độ hài lòng
  33. của khách hàng ngày càng gia tăng. “Đối với hầu hết nhân viên làm việc trong các cửa hàng nhượng quyền của Jiffy Lube, đó là một hướng đi cho họ gia nhập lực lượng lao động. Thêm vào đó chương trình huấn luyện giúp họ tiếp thụ phát triển và mở rộng vốn hiểu biết,” Barber nói. “Nó giúp họ khai phá con đường dẫn tới thành công.” Andersen Windows and Doors (Công ty cửa Andersen) Tại Andersen Windows and Doors, một doanh nghiệp chú trọng sự cải tiến không ngừng đã thay đổi quy trình học tập theo hướng ngược lại: những nhân công sản xuất góp ý để các nhà quản lý vận hành nhà máy hiệu quả hơn. Câu chuyện này có chút không giống với những câu chuyện khác trong chương này về hai phương diện. Một phần nội dung của nó đề cập đến việc xây dựng văn minh học hỏi tại nơi làm việc, và phần khác là về việc trao quyền cho người công nhân sử dụng kiến thức của họ để thay đổi môi trường lao động. Bằng cách khuyến khích công nhân phát hiện ra các vấn đề trong công việc và đề xuất biện pháp cải thiện, công ty này đang ủng hộ một trong những phương pháp học tập hiệu quả nhất mà chúng ta đã thảo luận: nỗ lực giải quyết một vấn đề. Chúng ta nên tập trung tìm hiểu một bộ phận trong công ty có tên Renewal by Andersen (Phục hồi bởi Andersen). Bộ phận này sản xuất cửa sổ thay thế ở mọi kích cỡ và thể loại: cửa sổ trượt đứng hai cánh, cửa sổ hai cánh, cửa sổ trượt, khung hình, các loại cửa sổ chuyên dụng với những kiểu dáng không theo phong cách truyền thống. Tại nhà máy của Renewal by Andersen ở Cottage Grove, Minesota, họ thuê 36 nhân công làm việc cho dây chuyền sản xuất cửa sổ trượt đứng hai cánh trong một ca làm kéo dài tám tiếng. Số nhân công này được phân ra ba nhóm, một nhóm sản xuất kính trượt, một nhóm sản xuất khung cửa, và một nhóm phụ trách giai đoạn lắp ráp cuối cùng. Mỗi nhóm làm việc có bốn trạm và được lãnh đạo bởi một trưởng kíp. Người này chịu trách nhiệm về sự an toàn, chất lượng, chi phí và phân phối trong nội bộ các nhóm. Các công nhân trao đổi vị trí với nhau hai giờ một lần để giảm thiểu những thương tổn do áp lực lặp đi lặp lại và thúc đẩy quá trình đào tạo chéo. Tương tự phương pháp lồng ghép hai hoặc ba chủ điểm khác nhau nhưng có mối liên hệ với nhau trong một quy trình thực hành, sự hoán đổi thường xuyên giữa các vị trí cho người công nhân cơ hội trau dồi vốn hiểu biết về quy trình tích hợp mà đơn vị của họ đảm trách cũng như trang bị cho họ kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể phản ứng một cách linh hoạt hơn
  34. trước những sự kiện nảy sinh bất ngờ. Có thể bạn sẽ chẳng ngạc nhiên khi biết rằng mỗi công việc lại được thực hiện theo một tiêu chuẩn được quy định thành văn bản. Những quy tắc thành văn này mô tả từng bước trong quá trình tiến hành. Nó là yếu tố cần thiết làm nên sự đồng đều của sản phẩm và chất lượng. Không có hệ tiêu chuẩn này, bốn cá nhân khác nhau sẽ thực hiện công việc theo bốn cách khác nhau, và sản xuất ra bốn phiên bản khác nhau của sản phẩm, Rick Wynveen, giám đốc nhà máy cho biết. Khi một nhân công mới bắt đầu làm việc, anh ấy hoặc cô ấy được huấn luyện phải tuân thủ một chuỗi thao tác thực hành và thông tin phản hồi có tính hướng dẫn mà Wynveen gọi là “chỉ dẫn – minh họa – thực hành – nhận xét”. Một công nhân mới sẽ làm việc chung với một nhân viên kinh nghiệm, quá trình luyện tập diễn ra ngay tại chỗ làm việc, và thông tin phản hồi giữ cho sự nhận thức và thực hiện của công nhân phù hợp với tiêu chuẩn đã đề ra trong văn bản. Những người công nhân huấn luyện các nhà quản lý như thế nào? Khi một công nhân nảy ra sáng kiến để nâng cao năng suất và ban lãnh đạo thông qua nó, ví dụ như cải tiến lại phương thức vận chuyển các bộ phận tới các trạm nhằm giúp người công nhân đỡ vất vả hơn cũng như việc lắp ráp diễn ra nhanh chóng hơn, chủ nhân của sáng kiến này sẽ rời khỏi vị trí sản xuất của mình để hỗ trợ việc tiến hành tiêu chuẩn mới. “Ý kiến của bất kỳ ai cũng đều quý giá,” Wynveen chia sẻ với chúng tôi, “bất kể bạn là một kỹ sư, một kỹ thuật viên bảo trì, hay một công nhân sản xuất.” Tương tự, khi một trong những đội thuộc dây chuyền sản xuất đã phấn đấu hết sức nhưng vẫn không thể hoàn thành chỉ tiêu, chính những người công nhân sẽ là những người bị yêu cầu phải xác định vấn đề và quay lại với quy trình sản xuất để giải quyết vấn đề đó. Vai trò hướng dẫn của những người công nhân được minh họa kịch tính nhất trong trường hợp mà Wynveen gọi là sự kiện Kaizen. Kaizen là một thuật ngữ tiếng Nhật, có nghĩa là sự cải tiến. Đó là yếu tố trọng tâm làm nên thành công của công ty sản xuất xe hơi Toyota và đã được áp dụng bởi nhiều công ty khác nhằm thiết lập một nền tảng văn hóa doanh nghiệp lấy sự cải tiến không ngững làm ưu tiên hàng đầu. Khi Wynveen muốn thực hiện một bước tiến lớn trong việc gia tăng năng suất của dây chuyền sản xuất cửa sổ trượt đứng hai cánh, ông tuyển dụng một đội thiết kế để tiến hành sự kiện Kaizen. Đội thiết kế này bao gồm một kỹ sư, một kỹ thuật viên bảo trì, một trưởng kíp và năm công nhân trực tiếp đến từ dây chuyền sản xuất. Họ được giao phó những mục tiêu nới giãn là giảm thiểu 40% yêu cầu về không gian của dây chuyền và gia tăng gấp đôi sản lượng.
  35. (Mục tiêu nới giãn là những mục tiêu không thể đạt được thông qua quá trình cải tiến tăng dần mà đòi hỏi những thay đổi to lớn trong việc tái cơ cấu lại các phương pháp.) Cả đội thảo luận trong phòng họp suốt tám tiếng một ngày trong vòng một tuần để người này có thể chỉ dẫn cho người kia về các yếu tố sản xuất, năng suất, những hạn chế của dây chuyền sản xuất và ngược lại. Họ cũng tự hỏi làm thế nào để thu nhỏ dây chuyền sản xuất mà vẫn khiến nó hoạt động tốt hơn. Tuần tiếp theo họ quay trở lại gặp Wynveen và nói: “Đây là những gì chúng tôi nghĩ ta có thể tiến hành.” Wynveen đưa đề án của họ tới từng trạm sản xuất trong số mười hai trạm của dây chuyền cùng một câu hỏi đơn giản: những thay đổi nào cần thiết để đề án này phát huy tác dụng? Các công nhân sản xuất và trưởng kíp của họ cùng nhau thảo luận và chỉnh sửa các yếu tố cấu thành cho phù hợp với phương án mới. Sau hơn hai cuối tuần, dây chuyền được phân chia và xây dựng lại thành hai nửa, rồi trong những tháng tiếp theo, dây chuyền bắt đầu được tái vận hành và tinh chỉnh. 200 sáng kiến cải tiến nữa được đề xuất bởi các công nhân trực tiếp sản xuất đã ra đời từ quy trình này, một quy trình học hỏi kết hợp giữa kiểm tra, phản hồi và điều chỉnh. Kết quả? Sau năm tháng, nhà máy đã hoàn thành những chỉ tiêu nới giãn của Wynveen và cắt giảm một nửa chi phí. Trong suốt quá trình chuyển đổi và tinh giản bộ máy này, những đội sản xuất chưa để lỡ một chuyến hàng nào cũng như gặp phải vấn đề gì về chất lượng. Nguyên tắc liên kết – chủ động tìm kiếm ý tưởng từ những người công nhân ở mọi vị trí trong nhà máy – là nhân tố trọng tâm trong nền tảng văn hóa công ty về sự cải tiến không ngừng. “Liên kết là một phương thức quản lý được xây dựng nên từ niềm tin và sự cởi mở,” Wynveen nói. Những người sản xuất tìm hiểu cách hoàn thiện mẫu thiết kế trong lúc làm việc, và công ty mở ra cơ hội để những đề xuất của họ được lắng nghe và bản thân họ được tham gia vào quá trình thực hiện. Quá trình trau dồi kiến thức đặt lên vai người công nhân trách nhiệm không ngừng học hỏi cũng như giao phó cho họ quyền cải biến hệ thống. Những vấn đề trở thành nguồn cung cấp thông tin hơn là nguyên nhân gây thất bại. Và học hỏi thông qua những nỗ lực giải quyết vấn đề (kiến tạo) và chỉ dẫn cho những người khác (diễn giải kỹ lưỡng) trở thành phương tiện hoàn thiện hiệu suất của từng cá nhân cũng như cả dây chuyền được hợp thành từ các cá nhân đó. Bệnh viện Châm cứu Inner Gate Đôi khi nguồn kiến thức và sự giáo dục đúng đắn có thể định hình nên quỹ đạo của cả một
  36. đời người. Hãy xem xét trường hợp của Erik Isaacman, một người chồng ở độ tuổi 30 và người cha của hai đứa con. Anh là một bác sĩ say mê nghiên cứu y học Trung Hoa truyền thống: thuật châm cứu, xoa bóp và các liệu pháp thảo dược. Chúng tôi xin kết thúc chương này bằng một câu chuyện về bước ngoặt trong sự nghiệp vừa được nhen nhóm của Erik, trung tâm châm cứu Inner Gate ở Portland, bang Oregon. Đó là câu chuyện về một bệnh viện đã thành công trong sứ mệnh điều trị của mình song vẫn đang chật vật để duy trì hoạt động trên cương vị một cơ sở kinh doanh. Erik và người cộng sự của mình, Oliver Leonetti, thành lập Inner Gate vào năm 2005, sau khi nhận bằng tốt nghiệp về y học Trung Quốc truyền thống. Thông qua mạng lưới tiếp xúc và phương thức tiếp thị đầy sáng tạo, họ bắt đầu xây dựng một lượng khách hàng nhất định. Hạt Portland là một vùng đất tiềm năng cho các liệu pháp thay thế. Công việc kinh doanh tiến triển và chi phí cũng lớn dần: họ thuê một địa điểm rộng hơn, tuyển một trợ lý sắp xếp cuộc hẹn và quản lý văn phòng, thuê một bác sĩ thứ ba, và nhận thêm một nhân viên phụ trách văn phòng hậu cần. “Tốc độ tăng trưởng hàng năm của chúng tôi hiện nay là 35 đến 50%,” Erik nhớ lại trong cuộc trò chuyện với chúng tôi. “Sự phát triển này đã che lấp rất nhiều thiếu sót của chúng tôi: chúng tôi không có những hệ thống phù hợp để quản lý chi phí. Chúng tôi không hoạch định những mục tiêu rõ ràng hay thứ bậc quản trị. Chúng tôi nhanh chóng nhận ra rằng mình không biết cách vận hành công việc kinh doanh.” Một trong số những bệnh nhân của Erik là Kathy Maixner, một chuyên gia đào tạo doanh nghiệp tại Oregon. Maixner đề nghị giúp đỡ anh. “Phát triển trong sự thiếu quản lý thật đáng sợ,” bà nói với chúng tôi. “Bạn đi tiên phong, rồi bạn lúng túng.” Bà đưa ra rất nhiều câu hỏi đi thẳng vào trọng tâm trong nhận thức của Erik và Oliver về những khe hở nghiêm trọng trong hệ thống của họ. Sau đó, ba người tiến hành các buổi huấn luyện thường xuyên được sắp xếp theo một lịch trình cụ thể. Giữa các buổi học đó, Erik và Oliver bù đắp những yếu tố còn thiếu sót: bản hướng dẫn quy trình hoạt động, mô tả công việc, mục tiêu tài chính, tiêu chuẩn xác định hiệu suất làm việc của các bác sĩ. Mỗi cơ sở kinh doanh phụng sự hai người chủ, khách hàng và kết quả kinh doanh của nó. “Các bác sĩ của chúng tôi cần hiểu biết nhiều hơn về cách thực hành y học Trung Hoa truyền thống,” Erik nói khi ông suy ngẫm về bước ngoặt trong nhận thức của mình và Oliver. “Họ cần ý thức được làm thế nào để biến một lần khám bệnh thành một mối quan hệ, và làm thế nào để giúp người bệnh hiểu được phạm vi bảo hiểm của họ. Thỏa mãn khách hàng là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng phải chi trả các hóa đơn.” Maixner đã ứng dụng phương pháp kiến tạo, suy ngẫm, diễn giải chi tiết và diễn tập vào các buổi huấn luyện của mình. Bà đưa ra những câu hỏi với mục đích phát hiện các khe hở trong nhận thức hay khuyến khích người đối diện củng cố hiểu biết về hành vi và công cụ mà họ cần
  37. thực hiện để trở thành những nhà quản lý thành công, những người biết cách giao phó nhiệm vụ cho nhân viên và giúp họ phát huy năng lực của mình. Họ đã phát triển một hệ thống theo dõi quá trình tuân thủ các tiêu chuẩn y tế, như số lượng bệnh nhân đến khám, tỷ lệ suy giảm bệnh nhân, và danh sách bác sĩ đa khoa giới thiệu bệnh nhân đến cơ sở của họ. Họ tìm hiểu xem làm thế nào để có thể chắc chắn rằng các công ty bảo hiểm sẽ chi trả cho mình một cách hợp lý, nâng các khoản bồi hoàn lên ít nhất là 30 xu trên một đô-la. Họ phác thảo một khuôn khổ chung cho các bác sĩ để họ tuân thủ khi tiếp xúc với một bệnh nhân mới. Họ đóng vai trong các tình huống mô phỏng những cuộc đối thoại giữa họ với nhau và với nhân viên của họ. Tập trung xây dựng một nền móng vững chắc cho bệnh viện đã biến Erik trở thành huấn luyện viên cũng như người thầy hữu ích cho các đồng nghiệp của anh. “Chúng tôi không phó mặc cho trực giác,” anh nói. Chẳng hạn, khuôn khổ hướng dẫn hành vi cho các bác sĩ trong giai đoạn tiếp xúc ban đầu với bệnh nhân giúp họ làm sáng tỏ điều gì đã mang các bệnh nhân tới với họ, liệu pháp nào có thể hữu ích, mô tả những liệu pháp này thế nào để bệnh nhân dễ hiểu, thảo luận về chi phí chữa trị và các phương án bồi hoàn của bảo hiểm ra sao, và đề xuất một kế hoạch điều trị như thế nào. “Nếu bạn là một bác sĩ, chúng ta sẽ đóng vai: bây giờ bạn là người bệnh, và tôi là thầy thuốc. Chúng ta nêu ra các câu hỏi, các ý kiến phản đối, và chúng ta luyện tập cách trả lời và giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp cho cả bệnh nhân và bệnh viện. Sau đó chúng ta sẽ đổi vai. Chúng ta ghi âm lại quá trình đóng vai, và lắng nghe để nhận thấy sự khác biệt: bạn đã trả lời người bệnh thế nào, và tôi trả lời họ ra sao.” Nói theo một cách khác, đây là sự học hỏi thông qua mô phỏng, sáng kiến, thử nghiệm, phản hồi, và luyện tập. Khi chúng tôi viết cuốn sách này, Inner Gate đang bước vào năm hoạt động thứ tám, là nguồn sinh kế cho bốn bác sĩ, hai nhân viên quản trị toàn thời gian và một nhân viên làm việc bán thời gian. Một bác sĩ thứ năm chuẩn bị vào làm việc, và bệnh viện đang có dự định mở thêm một chi nhánh. Nhờ cống hiến hết mình trên cương vị người học lẫn người dạy, Erik và Oliver đã biến niềm đam mê của mình thành một doanh nghiệp vững mạnh, một trung tâm châm cứu hàng đầu tại Portland. Đề tài chúng ta đã thảo luận xuyên suốt cuốn sách này là quá trình học hỏi, chứ không phải
  38. là nền giáo dục. Mọi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm với sự tiếp thu tri thức của chính mình, trong khi trách nhiệm giáo dục (và đào tạo) thuộc về các tổ chức xã hội. Hệ thống giáo dục đang đối mặt với nhiều câu hỏi hóc búa. Liệu chúng ta có nên bắt đầu giáo dục trẻ ở độ tuổi nhỏ hơn? Chúng ta nên đo lường và đánh giá kết quả như thế nào? Liệu thế hệ trẻ của chúng ta có đang cầm cố tương lai của mình để chi trả cho một tấm bằng đại học? Đó là những vấn đề cấp thiết, và chúng ta cần nỗ lực để tìm ra đáp án. Song trong lúc chúng ta đang làm điều đó, những phương pháp học tập mang lại hiệu quả cao mà chúng tôi đã phác thảo trong cuốn sách này có thể được áp dụng ngay lập tức tại bất cứ mô hình nào có sự tham gia của các học viên, giáo viên và huấn luyện viên. Chúng không hề đòi hỏi bất kỳ phí tổn cũng như cải cách cơ cấu nào nhưng lợi ích chúng hứa hẹn mang tới lại có tính thực tiễn và lâu dài. Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : Cộng đồng Google :
  39. Chú Thích 1. Là cuốn từ điển về các danh nhân người Mỹ do Albert Nelson Marquis biên soạn, xuất bản năm 1899 tại Chicago. Who's Who đã trở thành loại sách chuyên để tra cứu về các nhân vật thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề khắp nơi trên thế giới. 2. Cuốn sách đã được Alpha Books mua bản quyền và xuất bản năm 2014. (BT) 3. Cuốn sách đã được Alpha Books mua bản quyền và xuất bản năm 2011. (BT) 4. Câu chuyện trong Kinh thánh về cuộc chiến giữa tráng sĩ David người Israel với người khổng lồ Goliath. 5. Cuốn sách đã được Alpha Books mua bản quyền và xuất bản năm 2014. (BT)